Phủ Bà tọa lạc tại Trại 5, Thôn Đông Duy, Yên Quang, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định thờ phụng Phương Anh Phu nhân, Phương Dung Công chúa, danh tướng của Nhị vua Hai Bà Trưng và Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Theo người dân truyền lại và những sắc phong, Phù Bà được
xây dựng từ khoảng 300 về trước, vốn là một công trình lịch sử quy mô lớn. Đây
là địa điểm thờ phụng theo Đạo Mẫu của người Việt, đã từng nổi tiếng linh
thiêng và có rất đông người đến dâng hương, cúng lễ.
Trong kháng chiến chống Pháp, Phủ Bà đã bị phá hủy hoàn
toàn, khi hòa bình lập lại, người dân địa phương đã xây dụng một gian đền cấp 4
để thờ phụng Tam vị Thánh Mẫu. Những năm gần đây, ngày càng đông khách du lịch
tâm linh đến dâng hương tưởng nhớ Tam vị nhân thần đã một đời vì dân vì nước.
Theo huyền tích truyền lại trong dân gian, tại trang Phả Lại
huyện Quế Dương phủ Từ Sơn đạo Kinh Bắc có người họ Lã tên là Tiến, vợ tên là
Triệu Thị Phụng, làm nghề đánh cá kiếm ăn ở thượng lưu sông Nguyệt Đức từ làng
An Phú cho đến làng Hương La.
Khi đến nơi này ông bà nghỉ lại gần ngôi miếu thờ và đều mộng
thấy có thần nữ xuống giúp dân. Sau đó bà mang thai đến ngày thứ hai, tháng 2
năm Quý Mùi sinh một người con gái thiên tư đĩnh dị, tướng mạo khôi kỳ bèn đặt
tên là Ả Lã. Năm 16 tuổi Ả Lã rất sáng ý, học lực ngày càng tinh thông, lại
thêm có chí dũng khí phách độ lượng hơn người.
Hơn nữa các thức cầm kỳ thi hoạ không có thứ nào không tinh
thông... Khi ấy nào ngờ trong một đêm cả cha và mẹ nàng đều qua đời. Nàng làm lễ
mai táng xong cũng là khi Trưng Nữ chúa Mê Linh dấy quân phục thù dẹp giặc Tô Định.
Theo thần tích của Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính, khi Nữ Chúa
Trưng Trắc truyền lệnh kêu gọi tiến cử người hiền tài tinh thông văn võ tham
gia quân ngũ giết giặc. Được tin này anh thư hào kiệt Ả Lã liền tuyển mộ binh
mã được ngàn người, riêng ở bản trang có hơn 50 người xin theo làm gia thần.
Thế rồi quan quân làm lễ tế trời đất, lễ yết bách thần, sau
đó đem quân xông ra trận, quân lính kéo đi cờ xí bay rợp đường, trống chiêng dậy
đất vang động như sấm. Quân bản bộ của Bà tiến đến vùng Hiệp Ký huyện Chu Diên
đạo Sơn Tây để hợp quân với Nhị Chúa Mê Linh Hai Bà Trưng và bàn kế tiến đánh
quân địch.
Bà Ả Lã mặc áo màu sặc sỡ, rồi xin với Trưng Vương cho mình
làm phép tàng hình đi vào trại giặc để dò xét tình hình quân giặc Tô Định ở các
thành. Bà Ả Lã Nàng Đê thu được toàn bộ quân tình của giặc Hán về trình tấu cho
Nhị Chúa Hai Bà Trưng.
Nhị Chúa bà Trưng Trắc và em gái là Trưng Nhị đem quân tiến
về thành Lũy Lâu đánh với Tô Định, chỉ một trận là bắt được Tô Định, liền đem
ra chém đầu ở Ngũ Lĩnh. Sau khi Tô Định chết, quân giặc tan tác, quân ta chiếm
được 65 thành trì,
Chiến thắng giặc Hán, Chúa Trưng Trắc, Trưng Nhị lên ngôi, sắc
phong ban thưởng cho tướng sĩ có công, nữ tướng Ả Lã Nàng Đê được phong là
Phương Anh công chúa, ban cho sắc chỉ về lập ấp luyện quân trên vùng sông Đáy.
Tại vùng đất này, danh tướng Ả Lã Nàng Đê dạy dân làm ăn, chăm lo cuộc sống người
dân và luyện binh.
Ba năm sau Mã Viện đem quân tiến đánh, ả Lã Nàng Đê tham gia
chiến đấu trận Lãng Bạc và Cấm Khê, nhưng do thế giặc quá mạnh, bị bao vây nữ
tướng Ả Lã Nàng Đê đã trầm mình ở sông Hát.
Tưởng nhớ vị nữ tướng anh hùng với những công đức của Ả lã
Nàng Đê với người dân, rất nhiều làng thôn trên lưu vực sông Hồng và sông Đáy
tôn vinh bà là Đô hộ thành hoàng, thường kêu cầu là Đức Thánh Mẫu.
Nhị danh tướng và là vợ chồng Đào Kỳ – Phương Dung, 2 vị tướng
kiệt xuất trong cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng Anh thư Hào kiệt (Nguyễn) Phương
Dung, dấy cờ khởi nghĩa ở Lang Tài (Bắc Ninh). Được Trưng Vương Sắc phong Đăng
Châu công chúa. Lĩnh ấn Trấn Nam đại tướng quân. Thống lĩnh đại binh Giao Chỉ,
Đào Kỳ, lĩnh ấn nguyên soái hai đạo binh thủy bộ, huyện doãn Đông Ngân.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh hay Liễu Hạnh công chúa là một trong những vị Thánh quan trọng của tín
ngưỡng Việt Nam. Bà còn được gọi bằng các tên: Bà Chúa Liễu, Thánh Liễu Hạnh, Mẫu
Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Thiên hoặc ở nhiều
nơi thuộc vùng Bắc Bộ bà được gọi ngắn gọn là Mẫu Liễu.
Theo truyền thuyết trong dân gian Việt Nam, Mẫu Liễu Hạnh là
một trong bốn vị thánh Tứ bất tử. Bà vốn là con gái thứ hai của Ngọc Hoàng Thượng
đế, 3 lần giáng trần. Bà đã được các triều đại phong kiến từ thời nhà Hậu Lê đến
thời nhà Nguyễn cấp nhiều Sắc, tôn phong là "Mẫu nghi thiên hạ - Mẹ của
muôn dân", "Chế Thắng Bảo Hòa Diệu Đại Vương” và cuối cùng quy y cửa
Phật theo lối bán tu rồi thành đạo là Mã Vàng Bồ-tát.
Bà chính là vị Thánh Mẫu đứng đầu hệ thống Tam phủ, Tứ phủ
thờ đạo Mẫu. Nhiều làng xã và các đô thị ở phía bắc Việt Nam đều có đền thờ bà.
Lễ hội Thánh Mẫu Liễu Hạnh hàng năm được tổ chức vào ngày 3
tháng 3 Âm lịch
Phủ Bà còn lưu giữ được 10 đạo sắc phong cổ, lâu đời nhất đã
tồn tại 283 năm gần nhất 99 năm, (Gồm 3 Sắc phong cho Công Chúa Phương Dung, 6
Sắc phong cho Phương Anh Phu Nhân, 1 Sắc phong Mẫu Liễu Hạnh 1925).