Nguyễn Thủ Tiệp (chữ Hán: 阮守捷[1]; 908 - 967) hiệu Nguyễn Lệnh công (阮令公) hoặc Vũ Ninh vương (武宁王) là một thủ lĩnh thời Loạn 12 sứ quân cuối triều nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam.
Là một sứ quân có tham vọng, sau khi gây dựng Nguyễn Xá trang
ở Tiên Du để xưng là Nguyễn Lệnh công, Nguyễn Thủ Tiệp tiếp tục mở rộng ra địa
bàn lân cận và xưng là Vũ Ninh vương (giống tên gọi một vị vua thời Tam quốc
Triều Tiên trước đó). Vũ Ninh vương có địa bàn chiếm giữ ở châu Vũ Ninh, vùng đất
thuộc Bắc Ninh và một phần Bắc Giang, Hải Dương ngày nay.
Thân thế
Theo Khâm định Việt sử Thông giám cương mục, Nguyễn Thủ Tiệp
còn một tên hiệu nữa là Ba An quân (巴安君), mình dài tiếng to, ai nghe
thấy tiếng nói cũng phải giật mình, người ta gọi là ông Sấm (Lôi Công).
Đến khi khởi binh, Thủ Tiệp tự xưng là Lệnh Công, đóng giữ
huyện Tiên Du, sau đánh đuổi Thứ sử Dương Huy, lấy cả Vũ Ninh, tự xưng là Vũ
Ninh vương, giống tên hiệu một vị vua trong thời kì Tam Quốc Triều Tiên.
Theo thần phả và theo nhà nghiên cứu Nguyễn Danh Phiệt, thì
Nguyễn Thủ Tiệp cùng với 2 sứ quân khác là Nguyễn Khoan và Nguyễn Siêu là 3 anh
em, tổ tiên vốn là người Phúc Kiến di cư vào Tĩnh Hải quân.
Về ba anh em sứ quân họ Nguyễn: Nguyễn Khoan, Nguyễn Thủ Tiệp,
Nguyễn Siêu, theo thần tích xã Văn Uyên và xã Đông Phù Liệt, Thanh Trì, Hà Nội
thì họ là cháu của Nguyễn Hãng – một danh tướng Bắc triều. Con của Nguyễn Hãng
là Nguyễn Nê đem quân sang nước Việt đòi họ Khúc triều cống.
Nguyễn Nê dựng bản doanh ở Thành Quả lấy vợ Việt sinh ra ba
con trai vào các năm 906, 908 và 924. Sau khi Nguyễn Nê chết, ba anh em tranh
nhau giữ binh quyền, theo mẹ ở nước Việt gây nghiệp, người nào cũng nhiều của cải,
nhiều quân quyền. Cũng như các anh em của mình, ông cũng là thủ lĩnh địa phương
thời Ngô Quyền, chiếm giữ vùng Tiên Du (Bắc Ninh) vào khoảng năm 945.
Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh công, chiếm giữ Tiên
Du. Tại đây, ông trở thành một sứ quân quyền lực với nhiều tài sản, có trang trại
lớn gọi là Nguyễn Xá Trang. Theo một số ghi chép thì Nguyễn Thủ Tiệp đã về vùng
núi Bát Vạn đắp thành lập lũy tạo thành căn cứ quân sự của mình. Thành cổ núi
Bát Vạn hiện vẫn còn dấu tích ở xã Phật Tích, huyện Tiên Du với nhiều giai thoại
về cuộc đời và sự nghiệp của sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp.
Theo Việt sử kỷ yếu, Bọn Đỗ Cảnh Thạc, Kiều Tri Hựu, Dương
Huy và Ngô (hay Lữ) Xử Bình, đều là tướng tá của Nam Tấn vương, tranh nhau làm
vua sau khi Ngô Xương Văn chết, đều không thành, rồi mỗi người đi chiếm giữ một
nơi. Nguyễn Thủ Tiệp đánh Dương Huy, chiếm quận Vũ Ninh, làm chủ cả vùng đất rộng.
Sau khi mở rộng thực ấp, lấy cả châu Vũ Ninh, ông tự xưng là
Vũ Ninh vương (武宁王). Nguyễn Thủ Tiệp phong cho Nguyễn Quốc Khanh là
Đại tướng quân, thống lĩnh toàn bộ binh sĩ.
Bị đánh dẹp
Sau khi 2 anh em của mình là Nguyễn Khoan và Nguyễn Siêu lần
lượt bị vua Đinh Bộ Lĩnh đánh tan và giết chết, Nguyễn Thủ Tiệp bèn liên kết với
sứ quân Lý Khuê ở Siêu Loại để chống trả. Cuối năm 967, vua Đinh Bộ Lĩnh để
Đinh Điền cùng mấy tướng trẻ, ở lại giữ Tam Đái và Phong Châu, còn mình và con
cả là Đinh Liễn, đem binh thuyền xuôi sông Hồng, sông Đuống xuôi dòng tiến đánh
cả Nguyễn Thủ Tiệp và Lý Khuê.
Cánh quân vua Đinh Bộ Lĩnh hội cùng với cánh quân của Nguyễn
Bặc từ Thanh Oai lên, tấn công từ Cổ Loa tiến thẳng vào Tiên Du. Tướng quân Đinh
Liễn thì từ sông Đuống vòng theo phía sau lưng, chặn đường không cho quân của
Lý Khuê ở Siêu Loại đến tiếp ứng.
Khi quân Hoa Lư bao vây tiến đánh căn cứ Tiên Du, thành vỡ,
tướng của Nguyễn Thủ Tiệp là Nguyễn Quốc Khanh giả làm thầy lang, đeo bọc thuốc
chạy trốn, bị bắt ở bến đò No, sau đó bị Đinh Bộ Lĩnh chém đầu.
Căn cứ theo thần tích làng Tiên Xá, Bắc Ninh thì sứ quân Nguyễn
Thủ Tiệp dẫn quân tháo chạy về Cần Hải (Cửa Cồn, Quỳnh Lưu, Nghệ An) đánh nhau
vài trận rồi chết ở trang Hương Ái.
Sau khi bị vua Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp, vùng đất chiếm đóng của
ông thuộc Đạo Bắc Giang, một trong mười đơn vị hành chính của quốc gia Đại Cồ
Việt thời Đinh.
Được lập đền thờ phụng
Do có công cai quản, lập ấp và giữ vững ổn định ở địa
phương, sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp được lập đình thờ ở các phường Hạp Lĩnh, Khắc
Niệm thuộc thành phố Bắc Ninh và đình Phúc Nghiêm, xã Phật Tích, Tiên Du đều
thuộc tỉnh (Bắc Ninh).
Cụm di tích đình, chùa làng Ném Đoài, phường Khắc Niệm là
nơi quy mô nhất thờ sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp. Nhân dân làng Ném Đoài lập đền thờ
ông là thượng đẳng thần với vai trò vị thần lập làng. Năm 1982 ngôi đền được cải
tạo lại, nằm liền kề với chùa Cổ Niệm trong một khuôn viên. Nhà đền lưu giữ một
số hiện vật có giá trị như: Một lư hương sành thời Lê, hai chóe đựng nước cúng,
một bộ bát bửu, tượng Nguyễn Thủ Tiệp tạc năm 1937, một thần tích bản sao, khắc
gỗ năm 1932 và một số đồ thờ khác.
Đình, chùa làng Ném Đoài, phường Khắc Niệm, Bắc Ninh là nơi quy mô nhất thờ Nguyễn Thủ Tiệp
Cổ Niệm tự là ngôi chùa Nguyễn Thủ Tiệp phát tâm xây dựng. Lễ
hội lớn nhất trong năm ở Ném Đoài là lễ hội kỷ niệm ngày sinh Thành hoàng Nguyễn
Thủ Tiệp từ mồng 4 đến 11 tháng Giêng âm lịch.
Trên địa bàn phường Khắc Niệm còn đình làng Đông hay đình
Khu Đông cũng là nơi thờ tướng quân Nguyễn Thủ Tiệp. Khu phố Đông với khu phố
Đoài xưa kia chung 1 ngôi đình nằm ở giữa 2 làng, nay nằm ở vị trí trường Tiểu
học. Ngôi đình chung xưa kia có quy mô to lớn, nhưng đã bị tiêu thổ trong kháng
chiến chống Pháp. Năm 2010, đình mới được xây dựng trên khu đất mới như ngày
nay.
Ngôi đình Hạp Lĩnh và đình làng Tiên Xá thờ thành hoàng là sứ
quân Nguyễn Thủ Tiệp. Theo thần tích, cha ông vốn là người ở Phúc Kiến, Trung
Quốc, nhân đến sang dẹp loạn ở Tĩnh hải quân lấy vợ người Việt mà sinh ra anh
em ông, khi trưởng thành ông thấy vùng Tiên Du là nơi thắng địa bèn dựng trang
trại, lập ra Nguyễn Xá Trang.
Người trong vùng thường gọi ông là Ba An Thái lão quân Nguyễn
Lệnh Công. Sau Đinh Bộ Lĩnh sai Nguyễn Bặc đem quân đến đánh, ông thua trận phải
rút quân chạy vào Nghệ An, đánh nhau vài trận và mất ở đó.
Đình Phúc Nghiêm được xây dựng vào thời Lê Sơ, thờ Thành
hoàng Nguyễn Thủ Tiệp, là một trong 12 sứ quân có công chiêu binh dẹp loạn, bảo
vệ dân làng thoát cảnh loạn ly.
Đình Phúc Nghiêm nằm cách đình Tiên Xá khoảng 8 km, thuộc
huyện Tiên Du. Gần đình là dấu tích thành cổ núi Bát Vạn do Nguyễn Thủ Tiệp xây
dựng. Đến thời Lê Trung Hưng, đình được trùng tu và mở rộng với quy mô lớn.
Ngôi đình cổ là tòa đại đình lớn gồm 5 gian, mái ngói đao
cong, bộ khung gỗ lim, chạm khắc tinh xảo, nghệ thuật. Hiện đình có kiến trúc
kiểu chữ "Đinh" gồm 5 gian tiền tế và 3 gian hậu cung, bộ khung gỗ chạm
khắc nghệ thuật, mang phong cách truyền thống. Đình Phúc Nghiêm còn bảo lưu được
một số tài liệu sưu tầm và cổ vật như bia đá, thần tích, thần sắc sao chụp.
Đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân địa
phương. Hội đình (17-2 Âm lịch) hàng năm vẫn giữ được những nét truyền thống với
nghi thức tế lễ và các hoạt động văn hóa văn nghệ thể thao như: vật, đu tiên,
hát Quan họ, diễn tuồng, chèo…