Sơn Thánh Tản Viên, đứng đầu trong tứ bất tử và là "Thượng đẳng tối linh thần", "Đệ nhất phúc thần" (弟 一 福 神), "Nam thiên thần tổ" (南 天 神 祖),... "là người anh hùng văn hoá sáng tạo trong tư duy nông nghiệp, người anh hùng trị thuỷ, chống giặc, biểu tượng của khối đoàn kết bộ tộc, Thánh Tản Viên là phúc thần trừ tai hoạ cho dân".
Thời bấy giờ có ông Nguyễn Công Hạnh, tuổi đã bảy mươi, vợ
là Đinh Thị Điên năm mươi tuổi, sinh sống ở đó. Ông bà tích đức tu nhân, khói
hương không đứt, một đời phú quý phong lưu của cải dư thừa.
Bỗng một ngày trông thấy trong động mấy lành vương vấn, khí
tốt rực rỡ, một con rồng vàng xuống lấy nước, phun sóng ngọc châu, đáy giếng cuộn
lên mấy mờ khí tốt, du dương khúc nhạc dậy đất trời.
Được một lúc thì rồng cưỡi mây bay lên, biến mất. Gió nhẹ thổi,
như nhấc bổng người Thái bà lên đến tắm gội trên hòn đá trắng ở bên bức tường
bên giếng. Tự nhiên hương tỏa thơm tho ngào ngạt, khí tốt giăng đầy, như nước
non trỗi dậy anh linh, sông biển chập trùng khí tốt. (Thái bà) cảm thấy trong
người phấn chấn lạ thường.
Tự nhiên thấy mình như có mang thai. Mười bốn tháng sau, nhằm
ngày tháng Giêng năm Đinh Tị khi bà đang ngồi bên hòn đá trắng, thấy mấy lành
quấn quýt, khí tốt vấn vương, hào quang rực rỡ, thì cũng là lúc bà sinh hạ được
một người con trai, thần sắc tuấn tú, khí mạo hiên ngang, cao lớn hơn người, vạn
người mới có một. Được 100 ngày sau, đặt tên là Nguyễn Tuấn. Nghe chuyện lạ ấy,
người lúc đó thơ rằng:
Lăng Xương cốt cách ngọc tinh thần
Bả thác long linh giáng hạ trần
Thái thủy hiệu vi thiên thương mẫu
Cửu hoài hà nhược thể gian nhân.
Nghĩa là:
Cốt cách người Lăng Xương, tinh thần như ngọc,
Nên được rồng thiêng giáng xuống hạ giới.
Ngay từ đầu đã được gọi là Mẹ trên trời
Nhưng mang thai lâu dài chẳng khác người ở thế gian.Lại nói
về đứa con trai, khi vừa tròn 6 tuổi thì cha mất. Thái bà theo lễ mà chôn cất.
Năm lên 7 tuổi, mẹ con dắt nhau đến xứ Mang Bồi ở núi Thứu Lĩnh Ngọc Tản rồi ngụ
cư ở đó, kết thân cùng với lão bà Ma Thị là Cao sơn Thần nữ. Được hai năm, nhớ
phần mộ cũ [của cha] ở Lăng Xương, bèn trở về động cũ và đổi tên là Nguyễn
Tùng.
Năm 12 tuổi, đến theo học thầy Lý Đường tiên sinh, nguyện để
tâm theo học. Tuy sống trong cảnh nghèo khổ mà vẫn vui vẻ tính trời, không hề
thay đổi tâm tính. Ngày ngày hái lượm củi khô, một cây búa tiêu dao tìm kế sinh
nhai. Đêm đêm bên án tuyết song huỳnh, đọc sách, rượu một bầu lấy làm thú vị.
An bần lạc đạo, coi đó là chí lớn của mình. Tuy nhiên đôi
khi vẫn xót thương vì nỗi co cầu, lo lắng về nỗi lao khổ của mẹ, thường ôm sách
thở dài, gạt lệ mà rằng: “Trông nom ta, đẻ ra ta, nuôi ta! Con lo cho mẹ lắm,
nhưng cứ dìu dắt nhau đi như thế này lấy gì để mà an ủi mẫu thân”.
Mấy năm sau, tìm đến Ngọc Tản Lĩnh Sơn. kêu than với bà Ma
Thị rằng: ”Ô hô! Ô hô! Vận trời tuần hoàn, việc người thường biến, trước đấy ở
quanh bên sơn động này, dần dần có thể vui vẻ hợp với cảnh nhàn. Giờ đây rừng
khô kiệt củi, hết cái để nuôi mẹ. tình hiếu nghĩa biết sao đấy.
Con nguyện xin làm con nuôi lão bà, hằng ngày đi kiếm củi, để
nuôi mẹ”. Lão bà nghe lời than thở, liền đồng ý ngay. Nguyễn Tùng bèn dắt mẹ về
ở cùng trên núi Tản Viên. Mới được hai năm thì Thái bà mất. Nguyễn Tùng theo lễ
chôn cất. Sau lại cùng bà Ma Thị ở lại nơi đó. Rồi một ngày [Nguyễn Tùng] lên
núi chặt một cây đại thụ cao, vội trở về trong động báo cho người lên núi đem về.
Ngày hôm sau đến đó đã thấy cây gỗ, lá cành tốt tươi như cũ.
Nguyễn Tùng cho là lạ, lại chặt một lần nữa, giả vờ trở về, rồi phục ở đó để ý
xem xét. Nửa đêm, bỗng thấy một ông lão thân cao một trượng, râu tóc bạc phơ, đầu
đội mũ hoa. mình khoác áo gấm, lưng thắt đai vàng, chân xỏ hài mấy. tay phải cầm
gậy trúc, thong thả bước đi như phượng múa gấm hoa, rồng ngậm ngọc duẩn. nếu chẳng
phải nơi vườn Kỳ thì cũng là vật báu nơi Lãng Uyển.
Đi sau ông lão là một hề đồng, tay cầm một cái chuông vàng,
lắc lắc ba hồi. Ông lão miệng niệm thần chú, lấy gậy chỉ vào [chỗ cấy đo]. Bỗng
thấy một trận gió mát thổi tới, mấy lành bảng lảng, khí thiêng núi rừng tụ về,
đất trời biến hóa, trong chớp mắt, cấy đô dựng lên, sống dậy.
Tuấn công trông thấy rõ ràng, lập tức chạy lại gốc cây, hai
tay ôm lấy ông lão, hỏi rằng: “Cụ là người ở đâu tới đấy, tên cụ là gì? Sao lại
tiếc thương một cấy cổ thụ mà để cho kẻ cô đơn đói rét này không được nhờ cậy”.
Ông lão nói: “Ta là Sơn Tinh đại thần, tên gọi Thái Bạch Thần Tinh Tử Vi Thiên
Tướng, vâng lệnh Ngọc Hoàng xuống cai quản nhân gian. Nay đây chính là cấy ngô
đồng quý, giúp cho Thánh Đế ra đời, dựng lầu phượng trên nhân gian, chính nó là
cây gỗ đứng đầu trong hàng thảo mộc ở núi Tản trời Nam này. Cho nên, ta ra tay
bảo vệ cây quý, ngươi sẽ thấy buổi thái bình vậy thôi”.
Nguyễn Tùng lạy tạ, nói rằng: “Lời nói của Thiên Tướng sáng
soi như kính như gương, đâu dám không nghe theo. Nhưng người đời như bụi trần,
như khói bay), ngắn ngủi như kiếp phù du, hữu hữu vô số, sinh sinh, hóa hóa, cơ
trời hóa khôn lường. Sự việc đổi thay không biết thế nào cả. cả trời đất này
cũng chung lý ấy. Nguyễn Tùng tôi, nay muốn được có gậy thần và lời chú để cứu
sinh tử nhân gian, báo đáp ơn sâu của cha mẹ, được thỏa chí mình”.
Ông lão nghe nói, biết là người đại hiếu phi thường. Tức khắc
lấy cây gậy và lời niệm chú giao cho, rồi lại dặn rằng: “Đầu trên có thể cứu
sinh, dầu dưới có thể trừ tai họa, chỉ đất đất nứt, chỉ nước nước cạn, phép mầu
linh nghiệm, cơ biến diệu huyền. Chỉ lên trời thì mấy bạt sương tan, thấu tận cửu
trùng. Hãy cẩn thận ! Hãy cẩn thận ! Không thể ! Không thể”.
Dặn xong ông lão cưỡi mấy bay lên biến mất. Nguyễn Tùng khi
được cây gậy và lời niệm chú rất vui vẻ trở về động núi Tản Viên, bái tạ mẹ
nuôi, đem hài cốt của mẹ [đẻ] về động cũ Lăng Xương. Từ đó, xưng làm Thần sư.
Một hôm [Thần sư] đi qua thôn Cốc, sách Thủ Pháp bỗng thấy một
đàn voi, hổ tính đến hơn năm trăm con, tập trung cả ờ trên đường, ngang trở người
qua lại, làm muốn loài phải tẩu tán. Thần sư lấy gậy chỉ vào, tức thì hồ báo đều
theo đầu gậy mà đi khỏi, do vậy đường đi mới thông suốt.
Đến bên bờ sông, thấy nước trời một sắc, ráng sương mờ mịt,
bến vắng sông im, thuyền không gác mái. Thần sư lấy gậy chỉ vào nước, tức thì mặt
nước rẽ ra một lối, lòng sông không có đường đi mà bỗng trở nên có đường, qua
sông mà như đi trên đất bằng vậy.
Đến thôn Trung Độ, thuộc xã Ma Xá (còn gọi là bãi Trưởng Sa)
bỗng thấy trẻ chăn trâu đang đánh một con rắn đen lớn, rồi đem vui đùa, Thần sư
tự nhiên động lòng thương hại nói với lũ trẻ rằng: “Bọn mày có đùa nghịch như
thế? Ta đang muốn mua con rắn này đấy”. Đám trẻ reo lên vui vẻ rồi đồng ý bán
con rắn. Thần sư lấy 36 văn mua rắn. Rồi đem đến bãi Trường Sa miệng niệm thần
chú, cầm gậy chỉ vào, lập tức con rắn sống lại trước đầu gậy. Rắn đến bái tạ Thần
sư. Thần sư đứng trống thấy rắn đen trườn ra giữa sông, mặt nước rẽ ra một đường.
Rắn đen về đến hồ Động Đình, mới biết là con trai của Long Vương. Bấy giờ Thần
sư trở về động Lăng Xương.
Rắn đen về đến hồ Động Đình, đem hết mọi việc tâu với Đế
quân. Đế quân nhớ ơn công đức, lập tức sai Thái tử cùng Giao long Đô đốc đi đón
Thần sư tại bản động. Thần sư bái tạ dưỡng mẫu xuống chơi dưới Long cung.
Qua tường gấm, vượt cửa son thấy cửa ngọc cung châu tầng tầng
lớp lớp hiện ra. Thần Cồn. Tướng Ngao hàng hàng lớp lớp sắp hàng. Binh lính cá,
ba ba, cũng đứng chầu hầu. Đế quân ngư ở chính giữa, thỉnh mời Thần sư vào ngồi
ở bên hữu long sàng rồi nói: “Đông Cung Long Tính là Thái tử của trẫm, hôm qua
đi chơi chốn Dương Đài chẳng may gặp biến ở Trường Sa, may nhờ ngài cứu thoát,
thật là ơn nghĩa vô cùng. Hôm nay mới ngài tới đấy, muốn tỏ tấm lòng báo đáp”.
Thần sư tâu rằng: “Thủy phủ dương gian, hai cõi khác nhau,
Thái tử là Rồng nơi Thủy phu sao có thể hiểu được. Nhà tôi vốn đời đời làm việc
thiện, vả lại tôi lại được ban phép thần, buổi trước đi chơi, may mà cứu được,
cũng là tự ở trong lòng. Đâu ngờ hôm nay được gần gũi dung nghi của bệ hạ, dám
đâu mong được báo đền”.
Hôm đó khắp Long cung mở tiệc lớn. Đồ đạc chạm rồng trải khắp,
đuốc phụng sáng choang, bình hương trướng ngọc, vàng bạc mã não, phàm là những
của quý vật lạ, không thể có được ở trần gian tất cả đều được bày ra la liệt
trước mắt. Đế quân sai bày đại tiệc, thân mời Thần sư. Thần sư tâu rằng: “Người
đời được gặp bệ hạ, thật việc hiếm có ở trên trần gian. Tôi hôm nay vượt sông
ba đào đến chốn này, bình sinh sao dám mơ tới. Đâu dám không uống say”.
Yến tiệc xong, Đế quân lấy vàng bạc và báu vật ra lễ tạ Thần
sư. Thần sư cố từ chối không nhận. Thái tử bảo riêng với Thần sư rằng: “Hôm nay
được trông thấy mặt rồng, đúng là nghìn năm có một. Công đức của Thần sư như
non như biển, của cải đều xem bằng một sợi tơ. Nay vua cho có một cuốn sách thần,
bí pháp nhiệm mầu, thấu trời suốt đất chỉ trong một lời ước mà thôi. Thần sư muốn
quyển sách ấy, tôi sẽ tâu riêng với Đế quân để xin được báo đáp”. Thần sư nói:
“Được”.
Bấy giờ, Thái tử tâu vái Đế quân, Đế quân cảm công đức đó, mới
lấy sách ước ấy trao cho Thần sư. Thần sư được sách, nói phải ra về, Thái tử
đem binh mã tiễn đưa lên đến bờ sông rồi về.
Lại nói chuyện Thần sư khi về đến động Lăng Xương, thăm núi
Ngọc Tản, nói với Lão Bà”’ rằng: “Con từ thuở hàn vi ở vái mẹ, đã lâu ngày rồi,
công đức ấy lớn như trời vậy. Nuôi một bữa thì cũng báo đáp, huống chi là cái
ơn cao dày này. Công đức lớn lao vậy, há con lại quên sao.
Hôm nay con trở về đây nguyện đem thần pháp, gọi là một chút
báo đáp công lao của mẹ”. Thần sư lấy sách thần ra, ngầm cẩu trời đất ước nguyện.
Tự nhiên thấy một trận gió mưa ập đến, sấm chớp đùng đùng dậy trời vang đất Bỗng
thấy vàng bạc châu báu rơi như mưa khắp mặt đất. Được nửa trông canh, bỗng thấy
vàng hàng trăm quan từ trên trời rơi xuống.
Thần sư lượm tất cả, đem vào dâng lên dưỡng mẫu. Dưỡng mẫu thấy
tấm lòng thành thật, đôn hậu ngầm mừng muốn việc đã đủ, bèn đem mọi thứ ở rừng
núi của mình trao lại cho Thần sư để sau khi trăm tuổi có nơi thờ phụng. Nhân
đó lập một đạo chúc thư để đời đời được hương ả phụng thờ nơi đền miếu. [Chúc
thư viết]:
“Ma Thị Cao sơn Thần nữ ở xứ Mang Cốc, sách Thủ Pháp, huyện
Thanh Sơn, phủ Gia Khánh đạo Hưng Hóa, nước Văn Lang lập chúc thư. Do ở động
này, giang sơn điền địa khe suối, miếu điện, cỏ cây rừng rú từ trước đến nay đều
là của tôi.
Nghĩ sau khi mình trăm tuổi thân này về chốn Bồng Lai, hương
hỏa xuân thu lấy ai là người phó thác, việc trống nom thờ phụng gia tiên hiết lấy
ai là người nhờ cậy. Năm nay là năm Quý Dậu, tôi có người con nuôi ở động Lăng
Xương cùng động, tên là Nguyễn Tùng từ nhỏ đã ở cùng, coi như con đẻ. “Nay Ma
Thị tới tuổi đã ngoài 90, chỉ sợ mệnh trời, chưa biết là sâm hay chiều.
Muốn kê khai ra đấy mọi vật nhất nhất đều ghi rõ trong chúc
thư, giao cho con nuôi tôi là Nguyễn Tùng nối tiếp Ma Thị tôi. Nguyễn Tùng phải
tuân theo lệnh của ta coi giữ mọi vật ở trong núi. mãi mãi không được thay đổi,
lưu truyền vạn đại để hương hỏa phụng thờ. Trời đất thường đổi thay, xưa nay có
luật lệ.
Vậy lập một đạo chúc thư để lại cho con cháu noi theo mãi,
cao rộng thế nào kê khai ra sau đấy, rồi cứ theo thế mà sử dụng. Dân các xứ Cốc,
sách Thủ Pháp ở núi Ngọc Tản, cộng 22 xóm. Núi Ngọc Tản cao 112.300 trượng.
Trong đó: Một đoạn thượng điện trên núi đến hạ điện, nay gọi là xứ Lăng Cốc.
khe ngòi Bo tới sông lớn dài 300 trượng.
– Một đoạn từ đỉnh Mở Cò đến sông dài 300 trượng.
– Một đoạn từ Cấy Đa đến ngòi Lỗ, cửa sông dài 300 trượng.
Một nghìn dặm từ xã cẩm Đái, xứ Hàm Long 8.500 trượng.
Đông giáp huyện Minh Nghĩa (nay là huyện Tùng Thiện), huyện
Thạch Thất. Nam giáp hai huyện Mỹ Lương, Phúc Lộc. Tây giáp huyện Thanh Sơn. Bắc
giáp huyện Bất Bạt. Một ngôi đền hướng chính tây, tọa cấn hướng khôn
Lại có sông lớn. Tả Kiên Thần Nộn Sơn (giử). Mé tây do Kỳ
Sáo Thần Chấn Đồng Long Đại vương (giữ). Tấy bắc do Hậu Phi Cung Bạch y thần nữ
Đại vương giữ. Gồm sô” ruộng tế điển cộng 378 mẫu 4 sào 1 thước 1 tấc tính từ
sông Đà cho tới sông Lô, lấy Ngã Ba làm giổi hạn, đông tấy bốn phía như trong
sô” ruộng đất ngòi sẵn có.
Năm Hùng Vương thứ 18, tháng 8, ngày 28, lập chức thư.
Ma Thị Cao sơn Thần nữ ký”.
Lập chúc thư xong, Thần sư bái tạ, sau cùng về với lão bà.
Được hai năm, Ma Thị nằm bệnh gọi Thần sư lại đưa chúc thư,
dặn rằng: “Sau khi Ma Thị chết đi, nên thiết lập một cỗ thọ đường đặt ở miếu thờ
phụng để tỏ rõ đạo hiếu”. Thần sư cúi đầu bái tạ, vâng mệnh.
Hôm đó, bà Ma Thị qua đời. Thần sư theo lễ chôn cất. Rồi thiết
lập một cỗ thọ đường ở bên trái, bốn mùa hương khói thờ phụng không dứt. Đến
nay hiện vẫn còn. Người đời sau có thơ rằng:
Lại nói chuyện, bấy giờ là đời Hùng Vương thứ 18, Hùng Duệ
Vương đang trị vì thiên hạ. đông đô ở sông Bạch Hạc Việt Trì, đặt quốc hiệu là
Văn Lang, lấy tên Kinh đô là Phong Châu.
Vua là bậc hùng tài đại lược, thiên tư thông minh đáng bậc
Thánh trí. Trong chỉnh tu văn đức, ngoài giữ việc biên cương để yên bình trong
nước. Lại năng việc kính trời, thờ tiên tổ, cầu phúc, dưỡng dân. Trời ban phúc
tốt lành xuống cho nước nhà, do đó càng thêm trọng các việc thờ phụng cầu đảo.
Vua truyền cho các thần dân thiên hạ luôn luôn sửa sang miếu điện, nghi vệ trang
nghiêm. Ngày ngày dâng cúng hương hoa tỏ lòng thành kính. Các quan sở tại ở các
châu huyện đều đến các miếu điện mỗi tháng hai lần để chầu, cầu mong bách thần
phù hộ cho đất nước được thanh bình yên ấm. Duệ Vương thân hành đến các miếu điện
ở hai núi Nghĩa Lĩnh, Ninh Hoài cùng các đền thiêng thờ các huân tướng, công thần
khai quốc để tu tạo sửa sang. Một trời phong cảnh sáng trong tươi đẹp, bốn mặt
lâu đài tráng lộ trời mấy.
Thời vua đang trị vì, tuy có nhiều hoàng tử, nhưng đều đã về
cõi tiên. Vua thường xa giá đến các cung điện ở Tam Đảo, Tản Viên dạo xem phong
cảnh, chọn đất lành để lập miếu điện, lập đàn cầu tự. Nhưng vì lúc đó đã đến
lúc cáo chung, cơ đồ nhà Hùng đã hết. Vua mộng thấy điềm lành có con rắn, sau
sinh được hai nàng công chúa, đều dịu hiền đoan trang phong tư yểu điệu, khoé hạnh
má đào. mười phần xuân sắc.
Người con gái lớn tên là mỵ châu Tiên Dung công chúa, dã gả
cho Chử Đồng Tử, xã Đa Hòa, huyện Đông An, phủ Khoái Châu, đạo Sơn Nam. Người
con gái thứ hai là mỵ nương Ngọc Hoa công chúa, vẫn cung thiềm khóa kín, nhị ngọc
còn phong, việc lương duyên chưa định’11 cùng ai.
Vua muốn cầu được người tài gả cho để truyền ngôi báu cho.
bèn lập một ngôi lầu ở cửa thành Việt Trì, gọi là “Tuyển Tế Đãi Hiền lâu” (Lầu
đón người hiền, chọn rể) để biển rằng: “Ngoạn nguyệt cầu hiền” (Ngắm trăng cầu
hiền). Xuống chiếu truyền cho thần dân trăm họ, ai ai là kẻ thông minh nhân
trí, đức độ tài ba có thể nhường ngôi được sẽ gả con gái cho.
Ngày hôm đó trên sông thuyền bè san sát, trước lầu xe ngựa dập
dìu. Bút văn múa mà bóng rồng lay động, sao rơi xuống dòng sông lạnh lẽo. Trận
võ bày mà hổ báo kinh hồn, sấm vang rền góc biển bao la. Muốn nhà cả nước, bốn
biển anh hùng đều là kẻ được mặt này thì mất mặt khác, chẳng ai là toàn tài như
ý muốn của nhà vua.
Bấy giờ, Sơn Thánh và Thủy Tinh ở Động Đinh là bạn học của
nhau, lại đều có nhiều phép thuật thông thiên, chưa kịp ứng tuyển. Ngày hôm
sau, Sơn Tinh gửi cho Thủy Tinh một lá thư rằng: “Người xưa nói: Giai nhân
nan đắc (người đẹp khó giành được) Đàn ông gặp gò với người đẹp đã là khó, huống
chi lại là lấy công chúa làm vợ. Ôi? Tôi với anh, âm dương hai đường khác nhau,
mà tình đồng môn thì chỉ có một.
Nay người con gái nhà vua ở chốn Dương Đài, sắc đẹp nghiêng
nước nghiêng thành, chưa ai xứng tuyển. Bọn ta chẳng ngại đường xa mà tới, mối
duyên này chẳng là bọn ta thì ai được nữa”.
Thủy Tinh nhận được thư giãi bày tâm sự của Sơn Thánh, bèn
ngay hôm đó sửa sang hành trang tụ tập tướng sĩ kéo đến núi thiêng Ngọc Tản, gặp
Sơn Thánh. Sơn hào hải vị đại yến tiệc được mở ra để mời khách. Tiệc tan, Sơn
Thánh cùng Thủy Tinh tới kinh thành.
Cung kính đến trước nhà vua tâu rằng: “Chúng thần tài hèn sức
mọn, may được sinh ra ở đất nước của Quốc vương, trộm nghe Thánh thượng mở lầu
thi tài kén rể, chúng thần đến muộn, xin nhà vua cho thi tài, biết đâu may mà xứng
với hịch chiêu hiền”.
Nhà vua cả mừng liền đi xe mấy đến huyện Bạch Hạc, ngự xem
cuộc thi. Sơn Tinh ngồi ở đỉnh núi. Thủy Tinh trở về đáy sông. Chỉ trong khoảnh
khắc bỗng thấy đỉnh núi gió mấy kéo đến, mặt nước sông đồn. Núi sông ầm ầm tiếng
sấm. Nước cuộn kình nghê lạc phách, vạn dặm cuồng phong sống dậy, Côn Ngạc cũng
phải kinh hồn. Trùng trùng trắng đỏ, động địa kinh thiên, mông lung thiên địa.
Thiên hình vạn trạng, xuất quỷ nhập thần, biến hóa u minh ai ai đều kinh sợ.
Sơn Tinh bấy giờ tay trái cầm sách, tay phải cầm gậy, miệng
niệm thần chú chỉ vào các thứ đó, tức thì lạ lùng thay mọi thứ trước đầu gậy đều
bị quét sạch không. Bỗng thấy núi Ngũ Nhạc nổi lên trên mặt sông cao đến mấy vạn
trượng, lừng lững đứng giữa trời đất. Thú chạy tới chầu, chim về tụ họp.
Lòng sông vang trống động, sóng cuồn cuộn nổi lên, vạn vật đắm
chìm trong nước. Biên biến hóa hóa, phép thần của hai người đều rất huyền diệu.
Vua không biết sẽ gả con gái cho ai, ngay hôm đó xa giá hồi cung, nhà vua bèn
cho gọi họ tới truyền rằng: “Trẫm chỉ có một người con gái yêu, những người đến
trước đấy chưa được người nào. Nay hai khanh đều là bậc anh hùng, đến nay trẫm
cũng chưa biết gả con cho ai. Vậy thì ngày mai, ai là người mang sính lễ đến
trước trẫm sẽ gả con gái cho”.
Bấy giờ Thủy Tinh về hồ Động Đinh, kiếm tìm các vật lạ. sách
ước vì đã về tay Sơn Tinh, Sơn Tinh xuống lầu, lấy sách ước trong tay áo ra,
ngoảnh lên trời đọc ngẫm câu chú. ước được các sính lễ. Bỗng thấy voi trắng
chín ngà, vật lạ ngọc quý đều từ trên trời rơi xu ông Sơn Tinh lượm lấy, đến nửa
đếm thì lén đem các sính lễ tới cung vua. Nhà vua bèn gọi công chúa ra gả cho
Sơn Tinh. Sơn Tinh làm lễ. Lễ xong bái tạ, đón vợ về động Lăng Xương núi Tản
Viên.
Đến giờ Mão, ngày hôm sau, Thủy Tinh mang sính lễ đến. Nhà
vua nói rằng: “Sơn Tinh đã đem sính lễ tới trước rồi. Trước đã có lời hẹn, nay
biết làm sao được”. Thủy Tinh vì vậy rất hôi hận, trở về tâu với Đế quân xin
binh mã để tiến đánh Sơn Tinh. Đế quân đồng ý.
Ngày hôm ấy Thủy Tinh chỉnh đốn quân nhu, tụ họp các loài thủy
tộc, bày trận hàng hàng, bày binh Côn Kình vạn đội. Long chu đốc thúc ở giữa
sông, ba ba, cổ vũ ở đầy sông, hàng hàng thẳng tiến. Vừa đi được nửa đường. Sơn
Thánh hay tin bèn chặn ở bến Thuỵ Thư, huyện Từ Liêm).
Quân của Thủy Tinh không thể tiến được, bèn mở lối ngang
sông từ Nhân Lý đến miền sơn cước Quảng Oai, cho tới tận trên cửa sông Hát ra
sông Cái vào sông Đà để tập kích vào phía sau núi Tản Viên. Lại mở một ngách
sông nữa từ phía tây sông Lãng tập kích vào mặt trước núi Tản Viên.
Bấy giờ Sơn Tinh phép thuật rất biến hóa sai gọi dân núi chẻ
trúc làm rào, rào ngăn thủy quân lại. Sau lại lệnh cho dân rằng: “Các người nếu
thấy chúng đánh phá tới hàng rào, thì bắn và chém đi”. Dân đều nghe theo lời,
lát sau quân thủy tộc tiến đánh tới đều bắn và chém đi.
Lúc đó các loài Kình, Nghê đều dạt vào các hang hốc bên bờ
sông. Thủy Tinh căm phẫn oán hờn, cho nên đến nay vẫn hàng năm vào tháng 8 thường
dâng nước lũ đánh dân ở vùng núi, cuốn theo gió bão, mưa độc để hại. Nhưng vì
Son Tinh có một cuốn sách thần. Lại có bí quyết thần linh cho nên Thủy Tinh
không làm hại dân được.
Bấy giờ Hùng Duệ Vương đang trị nước, bốn biển thanh bình,
cha ông và cháu con đều đã ra đi cả, giang sơn từ của Thần Phù đến Yên Tử
lũng lờ mấy trắng vừng hồng. Gió trăng rọi Hoa Quật Long Biên trên dưới trập
trùng nước non xanh biếc.
Sơn Tinh bấy giờ dạo chơi, ngồi khe thưởng ngoạn cái thú của
nhà chài, qua các xã Tam Vật, cổ Đằng ở huyện Tùng Thiện, ngắm non sông thanh
tú, thiết lập thành hành cung . Nay là Trung (chấn cung) điện. Lại tuần du ở
chín xã Thuỵ Phiêu, Tam Sơn, Lễ Tuyền, Nhân Lý, Văn Khê, Xuân Khanh, Cam Đà, An
Phúc. Sơn Tùng. Cao Thuận huyện Phúc Thọ . Lập Nam (Thần) cung tại cửa khẩu cửa
12 khe ngòi. Lại đi săn bắn ở xã An Diệu, huyện Mỹ Lương , lập cung điện Mang
Sơn để lại ruộng tế điền 72 mẫu ở xã An Diệu ngày nay.
Và 200 mẫu, nay thuộc xã Triều Đông, cho dân Tạo lệ để
hương hỏa lâu dài về sau. Đến khi về đến động cũ Lăng Xương núi Tản Viên để làm
ruộng đất làm ăn. Ba ngọn núi cao vạn nhẫn , cảnh quan u sảng hùng vĩ không thể
nào nói hết được, lại thêm dân cư đông đúc trù phú, phong tục thuần hậu, trong
lòng rất yêu quí họ bèn dựng một cung điện ở trên đỉnh núi thuộc đất 22 xóm của
sách Thủ Pháp.
Nay Thượng điện tọa cấn hướng khôn làm chính điện. Cung
trung và cung hạ là nơi cầu đảo. Đông cung là nơi nghe tâu bày các việc.
Đến năm Ất Mùi, năm Hùng Duệ Vương thứ 150, vua Thục ngó thấy
Duệ Vương tuổi cao, mà 20 hoàng tử đều đã về cõi tiên, không người nô! ngôi
báu, thừa cơ động bình tiến đánh Duệ Vương để cướp nước ta. Vua bèn cùng các
quan trong triều bàn họp. Trong triều có Liêu công bước lên tâu rằng: “Bệ hạ
vâng mệnh trời, vua tôi hòa hợp, yên vui vô sự đã lâu dài, binh lính chưa tỉnh,
nay nếu động binh ngay, dựa vào quân dân xã tắc nếu đánh dẹp được thì việc phụng
thờ tổ tiên chẳng phải lo gì.
Chẳng may giặc mạnh, thế cường không phá được thì tổ tông và
dân chúng biết trống vào đâu. Chẳng bằng có mưu kế thận trọng lén hói lộ cho tướng
giặc giả đưa thư của địch chúa cho để xem ý tứ, cho binh lính tập dượt, thừa cơ
sau mới đánh được”. Vua nghe tâu, cũng muốn toan dùng kế đó, bèn gọi Thánh Tản
Viên hỏi rằng: “Có được không”.
Thánh Tản Viên tâu rằng: “Hơn 200 năm nay 17 đời trị nước,
ân trạch sâu dày đã thấm vào cốt tủy của nhân dân, mà quốc gia đã dài lâu, lòng
nhân nghĩa và uy đức đã trùm lên bốn biển. Vậy mà quân Thục không tự giữ gìn,
dám thừa cơ để dòm ngó thì rồi chúng sẽ xem.
Nếu như một ngày kia, bệ hạ kể tội và đem quân đi trừng phạt,
lấy nghĩa mà khuất phục thì muốn dân ta đều về với bệ hạ mà không theo giặc thì
lo gì không dẹp được Thần xin bệ hạ cho 3 vạn hùng binh ra nơi biên giới, nơi
chiến địa rồi vào đất Thục một mình một xe, thì có thể dẹp yên được giặc Thục”.
Nhà vua cả mừng bèn ngay hôm đó trai giới) lập đàn làm lễ tế
cáo trời đất, lấy Kìm Quang thần nở trao cho Sơn Thánh giữ và nói rằng: “Việc
binh quý ở sự thần tốc, tướng quân dùng cái này mà bắn đi thì như được thần
giúp sức vậy”.
Lại vào tế cáo ở Thái miếu(vua ngoảnh mặt về phía Tây, tướng
đứng ngoảnh mặt về phía Nam. Vua tự cởi lưỡi Việt), cầm đằng cán đưa cho tướng
nắm đằng lưỡi và nói rằng: “Từ chỗ này trở xuống, tới khắp sông biển là thuộc
quyền cai quản của tướng quân”. Sơn Thánh bái tạ, vâng lệnh rồi hiên ngang hùng
dũng kéo quân ra đi
Lại nói chuyện, bấy giờ quân Thục đã tiến vào tới núi Quỳnh
Nhai (nay thuộc địa phận phủ An Tây). Tản Viên Sơn Thánh tiến binh tới Mộc
Châu, rung chuông ầm ĩ để dàn trận, trú quân ở đó. Lại hịch cho các phiên thần
tụ tập binh lính, tùy nơi mà ứng chiến. Bấy giờ Tản Viên Sơn Thánh hạ lệnh tuyển
20 vạn quân để vào đất Thục, rồi giả vờ thua chạy lui quân về phục binh ở núi
Thiên Oan cho đến Mộc Châu.
Tản Viên Sơn Thánh ngồi chễm chệ ở trên núi vùng Mộc Châu lấy
sách thần ra để niệm chú và ước. Bỗng nhiên trên trời một vị thần tướng lao xuống,
thân dài 9 trượng, tay cầm một ống tiêu dài 3 trượng, rộng 5 thước hình giống vỏ
ốc, đứng trên đỉnh ở núi Tản Viên, thổi lên một hồi thì gió nổi, sấm dậy, sường
dạt mấy bay. Bẻ cây tốc gió, bụi tung mù mịt, đất trời tối sầm.
Quân Thục tán loạn rồi bỏ chạy tứ phía. Tản Viên Sơn Thánh
bèn cho nổi trống rồi lấy nỏ thần bắn hơn 100 phát. Thế là quân mai phục bốn
phía vây chặt, chém hết sạch 30 vạn đầu giặc, không thoát một tên, không lọt một
ngựa.
Thần tướng tự nhiên cưỡi mấy bay lên không trung biến mất. Tản
Viên Sơn Thánh truyền cho các tướng họp quân rồi dâng biểu tâu báo tin thắng trận
với Hùng Duệ Vương. Vua bèn xuống chiếu vời về. Sơn Thánh vâng mệnh trở về, bái
tạ Duệ Vương
Lại nói chuyện, được hai năm sau, quân Thục nuôi lòng căm phẫn,
lại cử binh phục thù, cầu viện những nước láng giềng, dốc hết quân giỏi trăm vạn,
cùng ngựa tốt, chia làm 5 đạo. Cánh quần chính 30 vạn, 5000 ngựa tiến thẳng
theo đường núi Quỳnh Nhai, Thập Châu. Cánh quân tả (bên trái) 10 vạn quân, 1000
ngựa theo đường châu Đại Man mà tiến. Một cánh quân giữa, 10 vạn quân theo hướng
của biển Hội Thông, châu Hoan. Thủy bộ cùng tiến, thuyền ngựa song hành.
Vua Hùng rất lấy làm lo lắng, triệu các đinh thần lại để hỏi.
Tất cả đều ngơ ngác nhìn nhau không nói, không có kế nhỏ nào có thể thi hành được.
Tản Viên Sơn Thánh quý xuống tâu rằng: “Trước kia, Thục chúa hùng hổ coi thường
uy trời, một lần ra quân là đã dẹp tan. May được ơn trời rộng mở cho chúng được
thoát cảnh nước mất nhà tan), nay lại không biết hối, muốn mưu đồ phản nghịch,
khác nào châu chấu đá xe, lòng tơ trên lò lửa. Bệ hạ sao lại phải lo lắng. Nắm
giữ việc binh, thần xin nhận lấy”.
Duệ Vương tươi tỉnh lại ngay nói rằng; “Mưu kế giữ nước,
khanh tính thế nào?”. Sơn Thánh tâu: “Cái sự quyển biến không thể tính trước được,
thần xin được có 50 vạn quân tinh nhuệ, thiên hạ của hoàng thượng vài ngày sẽ
yên định”, Vua bằng lòng, Sơn Thánh bèn đem 10 vạn quân, mấy tràm ngựa theo đường
chính Thập Châu, cứ thủ ở đó, đào hào sâu, đắp lũy cao, chưa vội giao chiến. Mật
sai Dũng mãnh Nguyên soái Tổng đốc Đại vương đem ba vạn quân tinh nhuệ theo đường
bên phía trái châu Văn Lan để ứng chiến với cánh quân tả của Thục.
Lại sai Quý Tướng hiệu Long linh Thần quan Phò quốc thượng Đại
tướng quân (không biết tên là gì) đưa 3 vạn binh mã theo đường bên phải châu Đại
Man, lập một đồn giả để ứng chiến VỚI cánh hữu của quân Thục. Lại sai Phò [quốc]
Ma Vương Đại Thần anh linh Nhất hạng Hào kiệt Đại tướng quân, đưa 3 vạn quân gồm
hơn 2.000 chiếc thuyền mui để ứng chiến với cánh quân thủy của Thục ở cửa biển
Hội Thống, châu Hoan và cai quản luôn một mặt châu Ái.
Sau lại sai Đại Thần Cơ Hổ Ma Vương Dũng mãnh Anh đô thượng
đại ngang tàng chi Đại tướng quân, đem 3 vạn quân, tùy địa thế mà ứng chiến.
Sơn Thánh cầm một cánh quân theo đường núi Thập Châu. đại phá một trận, thu được
cờ trận có in ấn tín của giặc. Sơn Thánh bèn giả vua Thục để đưa cho tướng Thục,
nói rằng: “Nước Vần Lang, triều Hùng có 10 thần tướng, nay các ngươi vâng lệnh
đi chinh phạt nước họ. Việc binh quý ở sự cẩn trọng, chớ nên khinh động, đợi
khi nào được chiếu thư của ta báo tới, mới có thể đánh được, thì sẽ thắng”. Viết
xong, nặn giả ấn tín của giặc đông vào trong lá thư, sai người ăn mặc như bên
giặc xưng là sứ nước Thục, phi ngựa tới trại cánh quân chính của giặc, chuyển
thư cho tướng Thục.
Tướng Thục nhận được thư, ra sức cố thủ. Cánh quân tả, hữu
thấy có biến không thể cấp báo về được. Sơn Thánh bèn tiến binh, mười ngày đi
được hơn 50 dặm, thẳng tới nước Thục, dàn binh tập kích.
Thục chúa không ngừng xin cứu viện. Sơn Thánh niệm thần chú,
lấy gậy thần chỉ vào, đại phá tướng địch ở cánh quân chính, bắt sống được toàn
bộ. Ba cánh quân thủy bộ tự nhiên tán loạn hết cả. Bấy giờ Sơn Thánh chiến thắng
trở về, đem theo tù binh đưa về kinh đô báo tin thắng trận.
Từ đó thiên hạ thái bình, quốc gia vô sự. Hùng Duệ Vương bèn
nhường ngôi cho Sơn Thánh. Sơn Thánh không nhận, tâu rằng: “Cơ đồ 18 đời vua
Hùng hưởng ngôi lâu nay, thiết tưởng lòng trời có hạn, để đến nỗi vua Thục gấy
hấn xâm chiếm nước ta. vả lại vua Thục vốn là Bộ chúa Ai Lao, cũng là con cháu
của các hoàng đế đời trước. Nghiệp đế vương an nguy, tất cả là do mệnh trời cả.
Sao nhà vua lại riêng lo cho mảnh đất phương Nam mà cưỡng lại ý trời, tất sẽ dẫn
tới chém giết lẫn nhau, để hại cho sinh linh sao?”.
Duệ Vương nói: “Lời nói của ngươi có lý, ta đã biết rồi, vả
lại đã từng nghe rằng: Thời bình coi trọng con trưởng, thời loạn thì coi trọng
kẻ có công. Ngày trước, Thục Vương hùng hổ lấn lướt, trẫm đã có ngươi là vây
cánh phò giúp, nhờ có oai phong lẫm liệt của thiên binh mà bọn giặc đều tan sạch,
quốc gia thăng bình, nhân dân yên ổn, công lao của ngươi xem ra chẳng là lớn
lao sao? Hơn nữa, ngươi đã là rể quý trong nhà, là danh thần trong nước, người
mà ta tìm kiếm để nhường ngôi báu, gánh vác giang sơn, nếu chẳng phải là ngươi
thì còn là ai nữa? Ngươi hãy nhận lấy, cho việc khiêm nhường mà chối từ để khỏi
phụ lòng cầu hiền của trẫm”.
Tản Viên Sơn Thánh không làm thế nào được mới đành tạm theo
lệnh vua. Bấy giờ khi đang giúp vua trị nước, ở triều đình nhưng không dứt
được cái chí dạo chơi nơi Bồng Hồ, Lãng Uyển). Châu báu ngọc ngà đều xem nhẹ
như sợi tơ. Lánh tục, tim nhàn vốn là ý nguyện lúc bình sinh, chẳng thể thay đổi.
Được hai ba tháng sau, Tản Viên Sơn Thánh lại trả lại ngôi
báu cho Duệ Vương, nói rằng: “Nghiệp bá vương thay đổi là chuyện thường xưa
nay, mà họ Hùng đã trị vi được hơn 2.000 năm rồi; kể từ khi Thái tổ Thương
hoàng khai quốc, đều có con hiền cháu thánh, cha truyền con nối đến nay là 18 đời.
Bệ hạ sinh được 12 hoàng tử đều đã phiêu thân nơi tiên giới,
thoát cõi trần ai, không có người nào để truyền ngôi cả, xem đó cái cơ đồ họ
Hùng đã mạt vận. vận nước sắp cáo chung. Lòng trời là thế. không người tiếp tục,
vậy nay biết làm sao. Mà thần thì là con rể của quốc vương, nhận chức trách lớn
này đâu dám không một lần nhận lấy. Mong bệ hạ thư tâm tĩnh trí. Lại nghĩ thần ở
ngôi báu chỉ sợ trái đạo trời, tránh được mối họa cho ức vạn năm sau”.
Sơn Thánh bèn trả lại ngôi báu cho Duệ Vương. Duệ Vương bằng
lòng trả lại trông coi chính sự, cố đãi người tài để có thể nhường ngôi. Tản
Viên Sơn Thánh bái tạ từ biệt. Phàm nơi nào dưới gầm trời bao la, không nơi nào
là không để dấu chân.
Cưỡi gió khiển mây dạo xem sông nước, ngồi xe mấy dạo khắp
chốn trần gian.
Có khi gảy đàn múa
sáo, thi – thư – thơ đôi dậy khắp đất trời.
Nhạc phượng ca loan thanh sắc tựa thú chơi tiên cảnh.
Một lá thơ đề chủ trương phong nguyệt, chèo thuyền tìm dấu
tiên xưa.
Đôi mắt chăm chăm lặng nhìn ráng khói, dạo gót xe mấy theo lối
cũ đi về.
Non xanh nước biếc chứa đầy càn khôn;
Nam Thánh Bắc Thần đi về mấy cõi.
Hằng năm, cứ vào ngày sóc. ngày vọng hằng tháng, tới phiên
chầu cửa khuyết, tiến dâng đại lễ. Sơn Thánh đều trở về chầu, chưa từng vắng mặt.
Tan chầu lại theo lôi cũ ghé bước nhàn du, được hơn 10 năm thì dứt mùi tục luỵ.
Bấy giờ, vào ngày rằm tháng Giêng năm Mậu Thần, bỗng thấy
vua Thục sai đem 100 cái hốt vàng; 100 thước gấm thêu rồng đến làm lễ, dâng thư
cầu hòa Duệ Vương. Thư viết rằng: “Quận chúa Ai Lao, thần là Thục, vâng mệnh trời
chứa tề một phương. Ngày trước dám ngông cuồng, chưa trọn lễ nghĩa bề tôi, dám
lăng mạ bề trên, thật là tội chết có thừa, mà quốc gia vẹn toàn thực là con
cháu của nhà Hùng mở cơ đồ, sáng nghiệp đế, nối dài công đức tổ tông.
Vì nước, vì nhà may mừng con cháu một phương xây dựng nghiệp
lân mới được như thế này. Nay nghĩ, người vốn có gốc ở tổ tông, mọi vật vốn có
gốc ở trời, chúng thần chịu nhiều ân đức, chang biết lấy gì để an ủi tổ phụ
tiên phi nơi miếu thiêng hay dưới suối vàng.
Chúng thần thường nhớ tới ân tình mưa móc càng thêm phần
thâm cảm. Bởi vậy chẳng ngại lời quở trách, mạo muội trống ngông sự uy nghiêm,
xin được vua xét tình xưa mà nghĩ tới nước Thục, cho được giảng hòa cầu thân,
theo lễ triều công. May mà được tắm gội ân vua thì thật không phụ chí nguyện suốt
đời của kẻ là con cháu này”.
Ngày hôm đó. Sơn Thánh vừa đến chầu ở chính điện. Duệ Vương
xem thư ấy, nhân chuyện đó đem hỏi Sơn Thánh rằng: “Thục Vương vốn là con cháu
tông phái các triều trước, khi xưa có nổi dậy hung hãn dám đến xâm lược nước
ta. may nhờ lòng trời còn đó nên cơ đồ triều ta chưa mất.
Hôm nay Thục Vương lại xin được cầu hòa, mong Tướng quân hãy
xét kỹ xem sao, rồi nói lại với Trẫm”. Sơn Thánh tâu rằng: “Thục Vương đã là
con cháu của các tiên đế, chúa tề một phương. Ngày trước muốn xâm chiếm nước
ta, làm phiền lòng bệ hạ, cũng là bởi lòng trời muốn cơ đồ 18 đời triều Hùng ta
một phen điêu đứng. Bệ hạ sao lại còn chứa chất nỗi căm hờn. Hôm nay, họ cầu
hòa thì là biết tiến thoái. Thục chúa cũng là vua hiền đấy! Chẳng bằng bệ hạ
hãy mở lượng bao dung cho hòa thân.
Đấy chính là cái đức của bệ hạ! Vả lại nhà Hùng dã mạt vận.
ý trời đã vậy. Nhân đó ta vời về, nhường ngôi cho. Đấy là sự Thánh trí của bệ hạ!
Sau rồi, bệ hạ cùng thần, đã có phép thuật thần tiên, chẳng bằng rong ruổi cõi
trần, một kiếp nơi Lãng Uyển, Bồng Hồ, giữ mãi tháng năm xuân sắc.
Lầu rồng gác phương chẳng nhiễm bụi trần. Nước biếc non xanh
miên man thưởng ngoạn. Thật là sáng suốt thay, bậc quân tử! Đó chẳng là vui
sao? Bệ hạ nghe kế đó của thần, hãy nhanh quyết đoán, việc chớ chần chừ”.
Bấy giờ Hùng Duệ Vương nói rằng: “Hay lắm! Hay lắm! Trẫm sẽ
theo kế đó”. Bèn sai đưa trả hết binh mã, gọi Thục chúa tới nhường ngôi cho. Thục
chúa bái tạ. Nhân đó Duệ Vương ban cho Thục chúa một cái nở thần. Vua bèn trở lại
núi Nghĩa Lĩnh hẹn với Sơn Thánh cùng vào cõi hóa sinh bất diệt
Thục Vương đã nhận ngôi báu, cảm động công đức ấy bèn xa giá
đến núi Nghĩa Lĩnh, lập miếu điện để làm nơi quốc gia tế lễ. Lại dựng hai phiến
đá làm trụ cột ở trong núi, chỉ lên trời, thề rằng: “Xin thề nguyện có trời cao
lồng lộng chứng giám anh minh, thần là Thục An Dương Vương nhận lấy cơ đồ nhà
Hùng này, nối nghiệp chính thống, ân đức cao dày còn mãi với trời đất. Nay lập 100 ngôi đền để làm nơi vạn thuở thờ phụng khói hương
không dứt, mãi mãi nghiêm trang. Nếu như các đời vua sau kế trị, ai người trái
với minh ước này thì đã có trời đất, núi sông chứng giám, kẻ đó đã phụ lời thề
trên”.
Nói xong, gửi ruộng tế điền tại các sách, động, trang, châu,
phủ, huyện, cộng cả thảy 2 vạn 70 mẫu để làm việc khói nhang thờ phụng ở các điện
Thương, Trung, Hạ muốn đời về sau.
Trải Đinh, Lê, Lý, Trần các bậc bá vương lần lượt đổi thay.
Sơn Thánh đều dùng phép thuật thần tiên, có khi biến hiện thân mình, có khi cảm
thông với người cầu ứng. Giúp nước cứu dân có công để đời. Trải các triều đều
chuẩn y cung điện cùng bản xã làm dân Tạo lệ, Hộ nhi , tô thuế cùng khắp nước,
vạn thuở còn truyền. Phúc đức thay!
Ths Nguyễn Thy Ngà tổng hợp