Cuộc khởi nghĩa Dương Thanh năm 819 tại An Nam được nhiều
sách sử ghi chép lại và cũng có nhiều bài khảo cứu, song hoàn chỉnh nhất có lẽ
là bài: Khảo cứu lại khởi nghĩa Dương Thanh của Phạm Lê Huy.
Trong bài viết, ngoài những sử liệu đã được biết đến, thì tác
giả khảo sát thêm 2 nguồn tư liệu là Mộ chí và Sách phủ nguyên qui, từ 2 nguồn
tài liệu quan trọng và được đánh giá là có giá trị cao, tác giả đã trình bày
hoàn chỉnh cuộc khởi nghĩa mà những tác giả trước đó chưa làm được.
Tôi cho rằng đây là một bài khảo cứu mẫu mực! Và không có
bình luận thêm, chỉ duy có một sự kiện muốn bàn thêm, ấy là việc: Dương Thanh
có chết vào năm 820 hay không mà thôi?
Khảo cứu lại khởi nghĩa Dương Thanh của Phạm Lê Huy viết đại
ý: Các cuốn sử như Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tư trị thông giám và Sách phủ
nguyên qui đều ghi chép là Quế Trọng Võ đã giết Dương Thanh vào năm 820, chỉ
duy có Đại Việt sử ký toàn thư là chép: Quế Trọng Võ đã không giết được Dương Thanh,
không những thế năm 828 Dương Thanh còn đuổi Đô hộ Hàn Ước về Quảng Châu.
Đền thờ “Dương tướng công” - Dương Thanh tại thôn Văn Lang, xã Hưng
Phúc, huyện Hưng Nguyên, Nghệ An. Đây sẽ là nơi tưởng niệm người anh
hùng và giáo dục truyền thống cho các thế hệ sau
Người đầu tiên phát hiện ra khác biệt này là Ngô Thì Sĩ, tuy
nhiên Thì Sĩ không có câu trả lời! Về sau Trần Quốc Vượng và Keith Weller
Taylor nhận thấy những ghi chép của Ngô Sĩ Liên là không có đủ cơ sở, vì thế mà
2 vị ấy theo thuyết Dương Thanh bị Quế Trọng Võ giết.
Cuối cùng tác giả đưa ra những căn cứ: thứ nhất, ít nhất là
về mặt thông tin thì Dương Thanh bị giết, thứ hai, ngoài những sách kể trên thì
căn cứ vào mộ chí của Lý Tượng Cổ và Lý Hội Xương cũng như vào việc năm 825 Đô
hộ Lý Nguyên Hỷ định rời phủ thành sang phía bắc sông Tô Lịch mà sử sách còn
ghi thì, quân Đường tái chiếm phủ thành An Nam là có thật, thứ ba, liên quan tới
việc hoạt động của Dương Thanh sau khi phủ thất thủ, thì Cựu-Tân Đường thư chép
rằng năm 822 Hoàng Man Động liên kết với Hoàn Vương quốc đánh hạ Lục Châu giết
Thứ sử Cát Duy, đồng thời cũng chép rằng năm 828 Đô hộ Hàn Ước bị đuổi về Quảng
Châu nhưng chỉ ghi do quân An Nam làm loạn mà không nhắc tới Dương Thanh.
Chính vì thế mà trong điều kiện tư liệu như vậy, tác giả tán
thành quan điểm về những ghi chép của Cựu-Tân Đường thư, Tư trị thông giám và
Sách phủ nguyên qui là đáng tin cậy hơn về mặt sử liệu.
Câu hỏi trước nhất mà chúng ta phải đặt ra ở đây là: Nếu như
sử sách (Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tư trị thông giám) đã ghi chép rõ ràng
như vậy rồi, thì hà cớ gì mà Ngô Sĩ Liên lại vẫn cứ kết luận Dương Thanh không
bị Quế Trọng Võ giết?
Trước hết, tất cả những tư liệu mà Ngô Sĩ Liên có được thì
Quốc sử quán triều Nguyễn và chúng ta đều đã biết, Sĩ Liên không thể có hơn một
tư liệu nào cả! Mà nếu có thì khả năng cao là Sĩ Liên sẽ giới thiệu cho chúng
ta biết! Có khi nào Sĩ Liên lại thu thập những câu chuyện dân gian về Dương
Thanh để làm tư liệu hay không?
Nếu Sĩ Liên suy đoán thì có 3 cơ sở là gần nhất: Thứ nhất,
là các sách sử như Cựu Đường thư, Tân Đường thư và Tư trị thông giám xác định
sai về thời gian mà Dương Thanh bị giết; thứ hai, Cựu Đường thư chép: “Chém
Thanh và con là Chí Trinh, tịch biên hết tài sản. Chí Liệt và Sĩ Giao thua trận,
giữ đất Tạc Kê ở Trường Châu, sau bị truy đuổi phải đem quân lính dưới quyền ra
hàng” và thứ ba, việc Hoàng Man Động (đồng minh của Dương Thanh) liên kết với
Hoàn Vương tấn công An Nam năm 822 và quân lính tại An Nam làm loạn năm 828,
tuy nhiên với những căn cứ này thì đúng như Trần Quốc Vượng và K W Taylor kết
luận.
Mộ chí của Lý Tượng Cổ do Vương Trọng Chu soạn năm 821 chép:
“Đất Việt có An Nam Đô hộ kiêm Ngự sử Trung thừa Lũng Tây Lý công, húy là Tượng
Cổ, xuân thu (thọ) 53 tuổi.
Ngày 19 tháng 8 mùa thu năm Nguyên Hòa 14 [819], gặp phải loạn
của bộ tướng là Dương Trạm Thanh ở quân quận, công [tức Lý Tượng Cổ] và vợ là
Vi Thị Kịp, 3 con trai và 2 con gái trong khoảnh khắc đều bị hại, chìm dưới bến
sông sâu. Sau khi hết việc binh, di cốt đều bị hủy hoại hết”. [xin xem thêm Khảo
cứu lại khởi nghĩa Dương Thanh của Phạm Lê Huy]
Mộ chí của Lý Hội Xương do nghĩa đệ là Lý Phùng soạn trước
tháng 11 năm 821 chép: “Gặp phải vụ phản loạn của thổ tướng là Dương Trạm Thanh.
Khi tên bắn đến nhà, bọn quân lại không ai dám tiến lên.
Anh [tức Lý Hội Xương] trong lòng đã quyết, cứng cỏi xin lệnh,
dẫn bọn tả đảm đánh nhau với giặc ở cửa, hăng hái xông lên trước, phía sau
không có người tiếp ứng, liền bị hại dưới đao của giặc, lúc đó là ngày 19 tháng
8 năm Nguyên Hòa 14 (…) Trạm Thanh là giặc của quốc gia, em đây chưa thể báo
thù được cho anh”. [xin xem thêm Khảo cứu lại khởi nghĩa Dương Thanh của Phạm
Lê Huy]
Tư trị thông giám chép: “[Năm Nguyên Hòa 14 – 819] Mùa đông
tháng 10, Dung quản [Kinh lược sứ] tấu An Nam tặc là Dương Thanh hạ
Đô hộ phủ (An Nam đô hộ phủ trị tại Giao châu), giết Đô hộ Lý Tượng Cổ và vợ
con, quan thuộc, bộ khúc hơn 1000 người.
Tượng Cổ là anh của Đạo Cổ. Do tham lam, hà khắc nên để mất
lòng người. Thanh nhiều đời làm tù trưởng người Man. Tượng Cổ gọi về làm nha tướng.
Thanh u uất, bất đắc chí. Tượng Cổ sai Thanh dẫn 3 nghìn quân đánh Hoàng Động
Man. Thanh nhân lòng người phẫn uất, dẫn quân ban đêm tập kích phủ thành, hạ
thành”.
Như vậy sau vài ngày bao vây thì đến ngày 19 tháng 8 năm 819
Dương Thanh hạ được phủ thành, giết Lý Tượng Cổ, Lý Hộ Xương cùng gia quyến và
thân sĩ, còn ngày 17 tháng 10 năm 819 là ngày mà triều đình nhận được bản tấu của
Dung quản kinh lược sử gửi từ Quảng Châu (Tư trị thông giám chép là tấu; Cựu-Tân
Đường thư chép là giết).
Cựu Đường thư chép: “Lệnh cho Thứ sử Đường Châu là Quế Trọng
Võ làm Đô hộ, chiếu dụ xá tội cho Thanh, cho làm Thứ sử Quỳnh Châu. Trọng Võ đến
biên giới, Thanh không cho vào. Thanh câu thúc thủ hạ, hình phạt nghiêm khắc,
người dưới không biết nhờ vào đâu sống được. Trọng Võ sai người chiêu dụ bọn tù
hảo, được mấy tháng, nối nhau qui phụ, được quân lính hơn 7 nghìn người, thu lại
được thành, chém Thanh và con là Chí Trinh, tịch biên hết tài sản”.
Sách phủ nguyên qui chép: “Quế Trọng Võ làm An Nam Đô hộ.
Tháng 6 năm Nguyên Hòa 15 (820), tấu:“Ngày 29 tháng 3, thu hồi An Nam, xử trí
xong bọn tặc đảng Dương Thanh”. Ngày Giáp Tuất tháng 8, Trọng Võ gửi thủ cấp của
tướng phản loạn Dương Thanh đến trạm dịch Trường Lạc, lệnh cho trung sứ ra
đón”.
Một số vấn đề về phương pháp luận sử học và vấn đề thời điểm
bùng nổ của khởi nghĩa Mai Thúc Loan của Phạm Lê Huy viết: “Nói tóm lại, cần nhận
thức các cuộc nổi dậy – khởi nghĩa ở Việt Nam dưới thời thuộc Đường luôn là một
quá trình, trong đó bao gồm nhiều sự kiện khác nhau gắn liền với những mốc thời
điểm khác nhau.
Các bộ chính sử Trung Quốc chỉ lựa chọn một, hoặc một vài dấu
mốc trong quá trình đó để ghi chép. Hơn nữa, luôn có “độ trễ” nhất định giữa thời
điểm xảy ra sự kiện trên thực tế và thời điểm chính quyền trung ương nhà Đường
nhận được tin tức về sự kiện đó.
Theo những phân tích của chúng tôi ở trên, khoảng thời gian
– “độ trễ” để thông tin, sự vật di chuyển từ phủ thành An Nam đến Trường An (và
ngược lại) sẽ dao động trong khoảng 57- 124 ±α ngày, tức là khoảng từ 2 – 4
tháng”.
Như vậy là sau khi nhận được bản tấu, nhà Đường cử Quế Trọng
Võ làm An Nam đô hộ, lệnh cho Thanh làm Thứ sử Quỳnh Châu, nhưng Thanh giữ chặt
biên ải bất tuân, Trọng Võ án binh chiêu dụ tù hào, Thanh câu thúc thủ hạ,
hình phạt nghiêm khắc nên Trọng Võ phá được thành, chém Thanh và con trai vào
tháng 3 năm 820, gửi bản tấu về triều đình vào tháng 6 năm 820 và gửi thủ cấp của
Dương Thanh đến Trường Lạc vào tháng 8 năm 820.
Câu hỏi thứ hai của chúng ta ở đây là: Vì sao có sự khác
nhau về thời gian trong việc gửi bản tấu và thủ cấp lên triều đình? Nếu chỉ đơn
giản là gửi thủ cấp lên triều đình thì Quế Trọng Võ có thể gửi cùng với bản tấu,
như vậy thì bản tấu lại càng được minh xác. Liệu có khi nào thủ cấp cần được bảo
quản do đó việc vận chuyển sẽ phức tạp nên chậm trễ hơn tờ thư tấu? Hoặc sau
khi nhận được bản tấu, triều đình không tin, nên lệnh cho Trọng Võ phải gửi đầu
về kinh thành do đó mà có sự sai khác? Và có thể khi gửi bản tấu lên triều
đình, sau đó một thời gian An Nam đô hộ mới gửi thủ cấp của Dương Thanh về bắc?
Chúng ta vẫn chưa biết chính xác chuyện gì đã xảy ra dẫn đến sự sai khác về thời
gian giữa việc triều đình nhận được bản tấu và thủ cấp đến Trường Lạc.
Giả thuyết về việc Trọng Võ bắt đầu gửi bản tấu và thủ cấp ở
2 thời điểm khác nhau do đó mà thời điểm triều đình nhận được cũng khác nhau,
không phải là không có cơ sở.
Như Cựu Đường thư cho biết, sau khi thất thủ con Dương Thanh
là Chí Liệt và thân tín là Sĩ Giao chạy về giữ đất Tạc Khê ở Trường Châu, sau
thì ra hàng. Vì thế mà không loại trừ trường hợp Thanh cũng rút về Tạc Khê, sau
khi ra hàng mới bị giết.
Câu hỏi thứ ba của chúng ta là: Liệu rằng ở thời diểm nhận
được thủ cấp, phía triều đình có thể xác nhận được đó đúng là thủ cấp của Dương
Thanh hay không?
Giả thuyết rằng triều đình không tin bản tấu của Quế Trọng
Võ không phải là không có cơ sở. Ngày 17 tháng 10 năm 819 triều đình nhận được
bản tấu của Dung quản kinh lược sứ gửi từ Quảng Châu, ngày 21 tháng 10 năm 819
cử Thứ sử Đường Châu Quế Trọng Võ làm An Nam đô hộ, thế nhưng sau hơn 4 tháng,
Võ không thu hồi được An Nam nên ngày 22 tháng 2 năm 820 nhà Đường bổ nhiệm Quế
quản quan sát sứ Bùi Hành Lập làm An Nam đô hộ, bản quản Kinh lược sứ thay Quế
Trọng Võ, biếm Võ làm An Châu thứ sử, thế nhưng Hành Lập qua đời ở trấn Hải Môn
trên đường đi nhậm chức. Như vậy rõ ràng là triều đình phương bắc đã có thời điểm
không còn tín nhiệm Quế Trọng Võ.
Chúng ta sơ qua về tình hình nhà Đường thời điểm trước và
sau cuộc khởi nghĩa Dương Thanh. Phía tây nam, năm 737 với sự hỗ trợ quân đội từ
phía nhà Đường, Mông Bì La Các thống nhất lục chiếu thành lập ra vương quốc Nam
Chiếu. Năm 750 Nam chiếu chống đối nhà Đường, năm 751 và 754 quân Đường tấn
công Nam Chiếu nhưng thất bại.
Các hoạt động quân sự của nhà Đường ở đây lắng xuống do sự
kiện loạn An Sử năm 755 – 763. Trong khi đó Nam Chiếu lại phát triển và bành
trướng rất nhanh, năm 764 Nam Chiếu thiết lập kinh đô thứ hai ở Vân Nam, giáp với
địa giới của An Nam. Phía nam, vùng Quảng Tây, năm 756 động chủ Hoàng Càn Diệu
xưng là Trung Việt vương, cùng với các động khác nổi lên chống lại nhà Đường.
Năm 785 động chủ Hoàng Thiếu Khanh mang quân đánh Ung châu và chiếm 4 châu
khác, con là Xương Miện chiếm thêm 13 châu. Năm 786 Hoàng Thiếu Độ khởi binh.
An Nam năm 791 Đỗ Anh Hàn khởi binh hạ phủ đô hộ, triều đình
cử Triệu Xương làm Đô hộ, năm 794 Nam Chiếu đánh dẹp các bộ lạc người Man, uy
hiếp An Nam, Triệu Xương hoà hoãn với Nam Chiếu nên vùng núi phía tây bắc tạm ổn.
Năm 802 – 803 Bùi Thái thay Xương làm đô hộ, bị Hoàn Vương
phía nam tấn công châu Ái, châu Hoan, phía bắc thì bị các Man Hoàng Động quấy
nhiễu. Đến thời Trương Chu thông qua việc sử dụng các thủ lĩnh địa phương, đặc
biệt là Đỗ Anh Sách mà An Nam yên.
Năm 808 Hoàng Man Động phía bắc động binh, năm 809 Hoàn
Vương phía nam động binh. Tôi cho rằng: việc Trương Chu phá được Hoàn Vương là
dựa vào các thủ lĩnh địa phương trong đó không loại trừ gia thế của Dương Thanh
ở Hoan Châu.
Tháng 8 năm 813 Bùi Hành Lập làm An Nam đô hộ, giống như Triệu
Xương và Trương Chu, Hành Lập dùng các thủ lĩnh địa phương. Qua việc Bùi Hành Lập
chém Phạm Đình Chi sau đó lại chọn người trong gia tộc họ Phạm để nối chức của
Chi, cho thấy Lập là nhân vật vừa cứng rắn nhưng cũng rất khôn khéo.
Xã hội Đại Đường phức tạp. Nam Chiếu ở phía tây, Hoàn Vương ở
phía nam thế đang mạnh. Qua việc Hành Lập lệnh cho Đỗ Anh Sách chém phản loạn của
Hoàn Vương là Lý Lạc Sơn cho thấy chính sách hoà hoãn hữu hảo của Lập.
Nam Chiếu và Hoàn Vương là quốc gia bên ngoài nơi biên cảnh,
nhưng Man Hoàng Động ở phía bắc An Nam vùng Quảng Tây lại nằm trong lãnh thổ,
hơn nữa lại là vị trí trọng yếu giữa An Nam và triều đình, do đó mà Hành Lập có
chính sách cứng rắn.
Năm 815 Liễu Tông Nguyên đến Liễu châu làm thứ sử, chính
sách giảm bớt sự cai trị hà khắc của Tông Nguyên giúp vùng này tạm yên (năm 819
chết tại Liễu Châu). Khoảng cuối năm 817 Bùi Hành Lập được thuyên chuyển về Quảng
Châu, nơi ông bàn tính với các quan chức trong vùng để xin lệnh tấn công Man
Hoàng Động tuy nhiên Tiết độ sứ Quảng Châu lúc đó là Khổng Quỳ không đồng ý, dẫu
vậy chiến dịch vẫn được triển khai và bị sa lầy ngay từ ban đầu. Kết quả là Man
Hoàng Động giành quyền kiểm soát lãnh thổ đồng thời thường xuyên mở các cuộc tấn
công.
Cựu Đường thư chép: “Lý Tượng Cổ từ chức Hành Châu thứ sử được
phong làm An Nam đô hộ. Năm Nguyên Hoà 14 (819) Lý Tượng Cổ bị Dương Thanh giết,
vợ con và bộ khúc không ai sống nổi. Dương Thanh mấy đời làm tù hào phương nam.
Lý Tượng Cổ tham lam phóng túng, lòng người không theo. [Tượng Cổ] lại sợ thế lực
của Thanh, đưa Thanh từ chức Hoan Châu thứ sử về làm nha môn tướng. [Dương
Thanh] trong lòng u uất không vui.
Không lâu sau giặc Hoàng gia ở Ung Quản làm phản, triều đình
chiếu cho Tượng Cổ phát binh mấy đạo đánh dẹp. Tượng Cổ lệnh cho Dương Thanh dẫn
3000 quân đến. Thanh cũng con là Chí Liệt và người thân tín là Đỗ Sĩ Giao bày
mưu làm phản, ban đêm tập kích An Nam, được mấy ngày thành bị hạ”
Năm 818 Hành Châu thứ sử Lý Tượng Cổ được bổ nhiệm chức An
Nam đô hộ thay cho Bùi Hành Lập, lo sợ trước thế lực của tù hào Dương Thanh
đang là Thứ sử Hoan Châu nên điều về làm nha môn tướng, vì thế mà Thanh trong
lòng u uất không vui.
Bấy giờ, những hoạt động quân sự của Hành Lập không hiệu quả,
để mất kiểm soát vùng lãnh thổ vào tay Man Hoàng Động, lại phải chịu các cuộc tấn
công. Chính vì thế mà triều đình lệnh cho Tượng Cổ tấn công Man Hoàng Động. Tượng
Cổ lệnh cho Thanh dẫn 3000 quân đến. Dương Thanh đang bị Tượng Cổ kiểm soát,
trong lòng u uất, đang muốn thoát ra. Nay nhân việc đánh Man Hoàng Động bàn với
con và thân tín, liên kết với Man Hoàng Động, tấn công đô hộ phủ. Kết quả là
đúng như kế hoạch.
Câu hỏi thứ tư của chúng ta ở đây là: Đỗ Anh Sách có vai trò
gì trong cuộc binh biến này không? Tôi cho rằng Đỗ Anh Sách nói riêng và gia tộc
họ Đỗ nói chung, là thế lực nhất ở vùng Giao Châu, Anh Sách từng giữ những chức
vụ quan trọng dưới quyền các quan đô hộ từ thời Triệu Xương tới thời Bùi Hành Lập,
nhưng cũng như sự biến năm 803, không thấy sự xuất hiện của Đỗ Anh Sách.
Có khi nào khi bị thuyên chuyển qua Quảng Châu, Hành Lập đã
dẫn Sách theo? Hay là Lý Tượng Cổ đã không còn dùng Sách nữa, nếu vậy thì có thể
Sách đã quay về Trường Châu. Hoặc có thể Sách đã chết? Cũng có khi án binh bất
động. Thanh chỉ có 3000 quân, nên khi vây phủ thành phải mất vài ngày mới hạ được,
như thế thì quân giữ phủ thành cũng không nhiều.
Người được nhắc đến trong việc chống lại quân phản loạn là
Lý Hội Xương chứ không phải Đỗ Anh Sách (trong khi triều đình biết về Sách).
Như vậy là Sách đã không được đề cập đến trong binh biến năm 819.
Có thể khi được nhậm chức An Nam đô hộ, Lý Tượng Cổ đã không
còn trọng dụng những thủ lĩnh người Man từng phục vụ dưới thời các đô hộ tiền
nhiệm, thay vào đó Cổ sử dụng người Hán như Lý Hội Xương. Trường hợp của Dương
Thanh, Tượng Cổ gọi về làm nha tướng với mục đích kiềm toả. Thanh vốn người
Hoan Châu, lại mới về Giao Châu một thời gian ngắn, nên rất khó có thể ảnh hưởng
được với quân lính ở phủ thành. Ngay như việc vây thành mấy ngày mới hạ được,
cho thấy Thanh không có nội ứng, quân lính giữ phủ vẫn trung thành với đô hộ. Những
quân lính này ít có khả năng là quân do Tượng Cổ mang từ phương bắc đến, khả
năng cao là quân bản phủ, do Lý Hội Xương tiếp quản đứng đầu. Với việc chống lại
đội quân 3000 người của Dương Thanh được vài ngày thì đội quân của Lý Hội Xương
cũng không phải là ít, thật khó để biết nó là bao nhiêu!
Theo Phạm Lê Huy thì biên chế binh lính được nhà Đường đặt tại
phủ thành An Nam thường chỉ khoảng 4200 người. Nếu vậy thì khả năng đội quân của
Lý Hội Xương khoảng 1000 người (Các sách Cựu Đường thư, Tư trị thông giám cho
biết, sau khi hạ được thành phủ, Dương Thanh giết hơn 1000 người gồm vợ con,
quan thuộc, bộ khúc của Tượng Cổ, tuy nhiên đây chỉ là con số bị giết, trên thực
tế số quân của Tượng Cổ là bao nhiêu?).
Năm 819 Quế Trọng Võ nhậm chức An Nam đô hộ, Dương Thanh
đóng cửa biên ải không cho vào, triều đình chiếu dụ Thanh nhưng không được, Võ
án binh, chiêu dụ tù hào, trong khi Thanh lại dùng các hình phạt hà khắc đối với
các tù hào đi theo, do vậy mà chỉ sau vài tháng, các tù hào nối nhau quy hàng
Võ, số lượng lên tới 7000 người, do vậy mà công hạ được thành.
Khi Thanh dẫn quân đi đánh Man Hoàng Động mới chỉ có 3000
quân lĩnh, vậy mà khi Võ đến, chiêu dụ được tới 7000 quân, số lượng quân lính
tăng thêm này từ đâu mà có? Phạm Lê Huy cho rằng: 7000 tù hào ra hàng Trọng Võ
chính là những người đã từng hưởng ứng và đi theo Dương Thanh sau cuộc nổi dậy
thành công năm 819.
Tôi cho rằng không hoàn toàn là như vậy. Thanh dù có hạ được
phủ thành nhưng trên thực tế quân lính trong tay cũng chỉ có 3000 người, so với
các tù hào ở các châu xung quanh thì cũng không phải là vượt trội hoàn toàn,
thêm nữa bản thân Thanh không phải là người Giao Châu, mà là người từ vùng khác
(Hoan Châu) đến.
Vì thế mà chuyện Thanh dùng binh ép buộc các tù hào ở các
châu khác phục tùng là khó xảy ra, có thể khi Thanh hạ được thành phủ, giết được
Đô hộ có chính sách cứng rắn với các tù hào nên họ hưởng ứng. Việc họ ra qui
hàng Võ tới 7000 người, vượt qua cả số lượng binh lính của Thanh, cho thấy các
tù hào này cũng tương đối độc lập với Thanh. Khi hạ được phủ thành, có các tù
hào đến hưởng ứng (một dạng liên kết quân sự) quân địch thì đang án binh bên
ngoài biên ải, vậy thì Thanh có nên áp dụng các hình phạt hà khắc đối với thủ hạ
hay không? Rõ ràng một chính sách hà khắc là không phù hợp trong trường hợp
này.
Thêm đó, nếu như sau khi đã hạ được thành rồi, thì sự hưởng ứng
của các tù hào được hiểu là như thế nào? Với số binh lính thân cận của mình
(3000 người) Thanh hạ và làm chủ được phủ thành rồi, thì các tù hào kéo về phủ
thành làm gì? Thông thường thì các tù hào làm trưởng một vùng và cho người của
mình đóng ở các vùng ấy, tuy nhiên vẫn quy thuận phủ thành.
Nay các tù hào dẫn người về phủ thành, thì giải thích ra sao
đây? Có khi nào, thấy Trọng Võ tới đánh nên Thanh đã gửi nhờ sự hỗ trợ của các
tù hào khắp nơi, nếu đúng thì việc Thanh dùng hình phạt hà khắc lại càng không
phù hợp.
Tôi giả thuyết rằng: Khi Cổ đến An Nam nhận chức, đã không
dùng các thủ lĩnh bản địa, thay vào đó để người Hán là Lý Hội Xương tiếp quản
quân lính trong thành, việc này đã ảnh hưởng không nhỏ tới mối quan hệ giữa
chính quyền đô hộ và các tù hào, trong các tù hào thì nhận thấy Dương Thanh là
khó kiểm soát nhất vì trước hết là ở xa, sau cùng là Hoàn Vương đang rất mạnh ở
phương nam, nếu 2 thế lực này liên kết tấn công Giao Châu thì khó mà chống nổi,
vì vậy Cổ đã điều chuyển Thanh về làm nha tướng ở Giao Châu.
Khi Bùi Hành Lập tấn công Man Hoàng Động từ phía đông đã
không hiệu quả, triều đình muốn Tượng Cổ điều binh tấn công Man Hoàng Động từ
phía nam. Thay vì cử Xương dẫn quân đánh Man Hoàng Động, Cổ lại cử Thanh đi,
theo kế này, một mặt làm Man Hoàng Động bị tổn thất, mặt khác làm Thanh cũng bị
tổn thất, nhưng mọi sự không như Cổ tính, thay vì tấn công Man Hoàng Động,
Thanh lại liên kết tấn công phủ đô hộ.
Quân của Thanh tới 3000 chủ yếu là những người theo Thanh
khi còn làm Thứ sử Hoan Châu, do không quá chênh lệch với quân của Xương đang
trấn phủ thành, nên việc tập kích vào ban đêm đã không đem lại nhiều hiệu quả
(Thanh lựa chọn thời điểm tập kích vào ban đêm, cũng phần nào cho thấy, quân đội
của Thanh không vượt trội quá nhiều so với quân giữ thành của Hội Xương) tin phủ
thành bị bao vây lan truyền, các tù hào quanh Giao Châu biết tin, liền mang
quân hỗ trợ Thanh, trong đó có họ Đỗ ở Trường Châu, khi quân hưởng ứng ngày
càng nhiều, ít nhất là lên tới hơn 7000 người, thì phủ thành bị hạ. Chiếm được
An Nam, Thanh sắp đặt, dùng các hình phạt hà khắc đối với những thủ hạ, nên bị
phản.
Đỗ Anh Sách làm quan dưới thời Triệu Xương năm 791 đến thời
Bùi Hành Lập năm 817, vậy cũng đến 25 năm, có lẽ khi cuộc nổi dậy của Dương
Thanh diễn ra thì Anh Sách cũng đã già.
Từ thời Triệu Xương, họ Đỗ ở Phong Châu, Trường Châu, Quận
Châu, Đường Lâm rất lớn mạnh, những cái tên có thể kể ra như: Đỗ Anh Hàn (Đường
Lâm); Đỗ Anh Sách (Trường Châu?); Đỗ Hoài Bích (Quận Châu) và bây giờ có thêm
nhân vật thân tín của Dương Thanh là Đỗ Sĩ Giao ở Trường Châu.
Vì là thân tín nên Sĩ Giao có lẽ đã đi theo Thanh từ lâu,
nhưng chính xác là từ thời Thanh còn làm Thứ sử Hoan Châu hay là khi làm nha tướng
ở phủ thành. Khi Võ hạ được thành, con của Thanh là Chí Liệt và Sĩ Giao rút về
Tạc Khê ở Trường Châu cố thủ, điều này cho thấy Sĩ Giao có thể là người vùng
Trường Châu và có cơ sở ở đất Tạc Khê, cũng không loại trừ Sĩ Giao có quan hệ họ
hàng với Đỗ Anh Sách.
Sau khi tái chiếm phủ thành, gia tộc của Lý Tượng Cổ và Lý Hội
Xương có tới An Nam để tìm xương cốt, tuy nhiên không tìm thấy. Do đó mà 2 gia
tộc đã chôn áo mũ của Tượng Cổ và Hội Xương ở thành Lạc Dương vào ngày 9 tháng
11 năm 821.
Bài mộ chí của Lý Hội Xương do nghĩa đệ Lý Phùng soạn xong
trước lễ tổ chức mai táng ngày 9 tháng 11 năm 821 và nhiều khả năng là soạn sau
ngày gia tộc tìm kiếm xương cốt (nghĩa là sau khi Trọng Võ tái chiếm phủ thành,
tạm bình An Nam).
Câu hỏi thứ năm của chúng ta ở đây là: Vì sao nghĩa đệ của
Xương là Phùng lại viết trong bài mộ chí là “Trạm Thanh là giặc của quốc gia,
em đây chưa thể báo thù được cho anh”? Có khi nào là bài mộ chí được viết trước
khi Trọng Võ tái chiếm phủ thành? Hay phải hiểu câu ấy là Trạm Thanh là giặc của
quốc gia, em không thể trực tiếp báo thú cho anh? Hoặc phải hiểu Trạm Thanh là
giặc lớn,
Trọng Võ đã tái chiếm được phủ thành nhưng không giết được
Trạm Thanh nên vẫn chưa báo thù được cho anh? Phải hiểu câu này như thế nào đây
cho đúng với những gì Lý Phùng muốn truyền đạt? Trong Khảo cứu lại khởi nghĩa
Dương Thanh của Phạm Lê Huy có viết đại ý: Qua mộ chí của Lý Tượng Cổ có câu
‘sau khi hết việc binh, di cốt đều bị huỷ hoại hết’ và mộ chí của Lý Hội Xương
có câu ‘lệnh vua đánh dẹp đã xong’ cho thấy chiến sự tại An Nam đã kết thúc, vậy
thì khả năng cao là 2 bài mộ chí được viết sau thời điểm ngày 29 tháng 3 năm
820.
Ngô Sĩ Liên có lẽ đã căn cứ vào Cựu Đường thư chép về việc
con của Dương Thanh là Chí Liệt và thân tín Sĩ Giao rút về giữ đất Tạc Kê ở Trường
Châu mà phỏng đoán rằng: Chí Liệt và Sĩ Giao cho thể thoát được thì sao Dương
Thanh không thoát được chứ? Có thể từ đây mà tác giả của Đại Việt sử ký toàn
thư cho rằng Thanh chưa chết! Chúng ta thấy rằng sau khi thất bại ở phủ thành
Chí Liệt và Sĩ Giao lại chọn rút về Trường Châu chứ không phải đất tổ Hoan Châu
mà đời đời họ Dương ở đây thịnh.
Nếu như quân 3000 mà Thanh đem đi đánh Man Hoàng Động là của
Tượng Cổ thì binh lính thân tín của họ Dương vẫn nằm ở Hoan Châu, như vậy thì
cơ sở Hoan Châu của họ Dương vẫn rất mạnh và còn nguyên, vậy thì Chí Liệt phải
rút về đó mới đúng, trong khi lại rút về Trường Châu. Trừ khi là quân lính 3000
mà Thanh mang theo là người Hoan Châu, nên khi thất bại ở phủ thành, cơ sở Hoan
Châu chỉ còn là vùng đất trống, không binh lính, do vậy Chí Liệt mới rút về Trường
Châu, nơi ít nhất là còn cơ sở của gia tộc họ Đỗ. Cựu Đường thư có viết truyện
Chí Liệt bị truy đuổi nên về sau ra hàng, chúng ta cũng không biết thời điểm
Chí Liệt ra hàng là bao giờ và có bị giết?
Cựu Đường thư chép: “Trường Khánh năm thứ 2 (năm 822) (…)
tháng giêng (…) ất mùi, Thứ sử Quỳ Châu Vương Thừa Biện làm An Nam đô hộ, bản
quản kinh lược chiêu thảo sứ (…) tháng 6 (…) An Nam phó sứ Thôi Kết làm Ung Quản
kinh lược sứ (…) tháng 9 (…) đinh tị, Thứ sử Vạn Châu Lý Nguyên Hỷ làm An Nam
đô hộ (…) tháng 11 (…) tân mùi, tiền An Nam đô hộ Quế Trọng Võ làm Ung Quản
kinh lược sứ (…). Trường Khánh năm thứ 4 (năm 824) (…) tháng 11 (…) An Nam đô hộ
Lý Nguyên Hỷ tấu: Giặc Hoàng gia hợp Hoàn Vương quốc hãm Lục Châu, giết Thứ sử Cát
Duy (…). Bảo Lịch năm thứ 1 (năm 825) (…) tháng 4 (…) An Nam Lý Nguyên Hỷ tấu:
Dời phủ đô hộ về phía bắc sông ô. Đại Hoà năm thứ 1 (năm 827) (…) Kiền Châu thứ
sử Hàn Ước làm An Nam đô hộ. Đại Hoà năm thứ 2 (năm 828) (…) tháng 9 (…) An Nam
quân loạn, đuổi Đô hộ Hàn Ước. Khai Thành năm thứ 1 (năm 836) (…) tháng 9 (…)
Nhiêu Châu thứ sử Mã Thực làm An Nam đô hộ”.
Tân Đường thư chép: “Trường Khánh năm thứ 4 (năm 824) (…)
tháng 8 (…) Hoàng Man Động tấn công An Nam (…). Đại Hoà năm thứ 2 (năm 828) (…)
tháng 9 (…) An Nam quân loạn, đuổi Đô hộ Hàn Ước”.
Quân loạn An Nam dẹp yên vào tháng 3 năm 820, đến tháng 1
năm 822 Thứ sử Quỳ Châu Vương Thừa Biện làm An Nam đô hộ, tháng 9 năm 822 Thứ sử
Vạn Châu Lý Nguyên Hỷ làm An Nam đô hộ thay cho Biện, đến tháng 11 năm 822 Quế
Trọng Võ làm Ung Quản kinh lược sứ.
Sau 2 năm làm Đô hộ, tháng 8 năm 824 Man Hoàng Động tấn công
An Nam, tháng 11 năm 824 Nguyên Hỷ tấu Man Hoàng Động liên kết với Hoàn Vương tấn
công Lục Châu giết Thứ sử tên Cát Duy, cho thấy Man Hoàng Động rất mạnh, liên kết
này có lẽ là việc cùng phối hợp tấn công ở cả phía nam và phía bắc An Nam vào
khoảng thời gian gần nhau. Sau cuộc tấn công của Man Hoàng Động và Hoàn Vương,
tháng 4 năm 825 Nguyên Hỷ tấu cho rời phủ đô hộ về phía bắc sông Tô Lịch.
Đại Việt sử ký toàn thư và sau này là Khâm định Việt sử
thông giám cương mục chép là do Hỷ thấy dòng nước chảy ngược nên sợ có quân phản
loạn vì thế mà dời phủ. Tôi cho rằng việc rời phủ này có nguyên nhân từ tình
hình phức tạp tại An Nam sau sự kiện Man Hoàng Động tấn công vào năm trước, đây
có thể là cuộc di dời chiến thuật của Hỷ nhưng cũng có thể là dưới sức ép của địch
mà Hỷ buộc phải dời phủ thành.
Khoảng đầu năm 827 Hàn Ước làm Đô hộ An Nam, tuy nhiên Ước gặp
phải sự chống đối của Thứ sử Phong Châu Vương Thăng Triều (An Nam chí lược – Lê
Tắc), dẫu dẹp yên được Thăng Triều nhưng sau đó không lâu tháng 9 năm 828, Hàn
Ược bị quân phủ đuổi khỏi An Nam.
Khoảng 8 năm sau vào tháng 9 năm 836 nhà Đường mới cử Mã thực
sang làm An Nam đô hộ phủ. Vậy là, dù Quế Trọng Võ có tài chiếm được phủ thành
vào năm 820 nhưng những tàn quân của Dương Thanh vẫn còn, phía bắc Man Hoàng Động,
phía tây bắc Nam Chiếu, phía Nam Hoàn Vương thế đang rất mạnh, Lý Nguyên Hỷ tiếp
nhận An Nam vào năm 822 trong tình hình không phải quá yên ổn, bị cả Man Hoàng
Động và Hoàn Vương tấn công, các tù hào bất tuân. Hàn Ước nhậm chức Đô hộ tại
An Nam tình hình cũng không khá hơn, các tù hào đã chống đối ra mặt (Vương
Thăng Triều có lẽ đã ly khai chính quyền đô hộ tại An Nam từ thời Dương Thanh
chiếm phủ thành, vị trí Phong Châu giáp với cả Man Hoàng Động và Nam Chiếu, nên
việc Vương Thăng Triều ly khai và tấn công chính quyền đô hộ cũng là điều hiểu
được, không loại trừ có yếu tố Man Hoàng Động và Nam Chiếu trong sự kiện Phong
Châu Thứ sử làm phản) bị quan quân trong phủ đuổi khỏi An Nam.
Nhà Đường sau đó không có một hoạt động nào để giành lại An
Nam, phủ thành nằm dưới sự kiểm soát của quân nổi loạn, cho đến năm 836 khi Mã
Thực được cử sang làm Đô hộ.
Câu hỏi thứ sáu của chúng ta ở đây là: Với tình hình An Nam
từ thời Lý Tượng Cổ đến thời Hàn Ước, nếu như Dương Thanh rút về giữ Tạc Khê
(Trường Châu) thì liệu rằng quân Đường có thể diệt được tàn dư này không? Như
đã thấy nhà Đường hầu như chỉ có thể kiểm soát được Giao Châu, còn các châu lân
cận thì do các tù hào chiếm giữ, đến khi mất cả An Nam, nhà Đường cũng không có
hoạt động gì để lấy lại, như thế để biết cai trị của triều đình phương bắc ở An
nam thời điểm từ Đô hộ Lý Tượng Cổ đến Đô hộ Hàn Ước là rất yếu.
Nếu như Dương Thanh không chết, rút về giữ đất Tạc Khê, thì
liệu rằng: Dương Thanh có liên quan tới vụ quân loạn năm 828 hay không? Việc
rút về giữ đất Tạc Khê có lẽ là chủ ý của Đỗ Sĩ Giao, thân tín của Dương Thanh,
Sĩ Giao có lẽ là tù hào đất Tạc Khê, với căn cứ này, Dương Thanh có cơ sở để tồn
tại lập nghiệp. Sĩ Giao cùng họ Đỗ với một nhân vật rất có uy tín (có thể xem
là cùng thời) tên Anh Sách, người này cũng có thể xuất thân từ Trường Châu, do
vậy khả năng cao là Sĩ Giao có mối quan hệ nào đó với Anh Sách, có thể là mối
quan hệ họ hàng (thế hệ trước thế hệ sau).
Trong khi thời gian còn làm những chức vụ quan trọng trong
phủ, Anh Sách có mối quan hệ với các tù hào địa phương và quan quân trong phủ
thành, do vậy không loại trừ, việc quan quân trong phủ thành nổi loạn năm 828
đuổi Đô hộ Hàn Ước là có sự góp mặt của Dương Thanh và họ Đỗ ở Trường Châu.
Thời điểm diễn ra sự kiện quân loạn là sau khi Hàn Ước phải
đối đầu (và chắc chắn bị tổn thất) với Thứ sử Phong Châu Vương Thăng Triều – một
thời điểm hợp lý (trước đây Thanh cũng đã từng lựa chọn thời điểm tấn công phủ
thành là vào ban đêm).
Sách Cựu Đường thư do Lưu Hu soạn vào khoảng thời gian từ
năm 941 – 945, Sách phủ nguyên qui do Vương Khâm Nhược, Dương Ức soạn từ năm
1005 – 1013, Tân Đường thư của Âu Dương Tu soạn từ năm 1044 – 1054, sách Tư trị
thông giám của Tư Mã Quang soạn hoàn thành vào năm 1084.
Sách Cựu Đường thư chép rằng: Tháng 6 năm 820 Quế Trọng
Võ tấu giết được đầu đảng của giặc là Dương Thanh, thu phục được An Nam; tháng
8 năm 820 An Nam đô hộ là Quế Trọng Võ chém đầu phản tướng Dương Thanh dâng lên
triều đình, thu hồi An Nam phủ. Sách phủ nguyên qui chép rằng: Tháng 6 năm 820,
tấu: “Ngày 29 tháng 3, thu hồi An Nam, xử trí xong bọn tặc đảng Dương Thanh”.
Tháng 8, Trọng Võ gửi thủ cấp của tướng phản loạn Dương Thanh đến trạm dịch Trường
Lạc, lệnh cho trung sứ ra đón. Tân Đương thư chép rằng: Tháng 3 năm 820 giết
Dương Thanh.
Chúng ta thấy rằng ghi chép gần nhất với sự kiện là sách Cựu
Đường thư, tuy nhiên sách này cũng cách sự kiện tới 120 năm, các sách khác thì
cách sự kiện tới 180 đến 200 năm.
Sách gần nhất là Cựu Đường thư cũng chỉ ghi chép là: Tháng 6
năm 820 nhận bản tấu là đã giết được Dương Thanh, còn chính xác là Dương Thanh
bị giết ngày tháng nào thì không thấy đề cập, đến tháng 8 cùng năm thì nhận được
thủ cấp, cũng rất khó để xác định xem những gì viết trong bản tấu có đúng không
và thủ cấp có đúng của Dương Thanh không? Sách phủ nguyên qui thì ghi rõ ràng
hơn là trong bản tấu (tháng 6 năm 820) có viết rằng: xử trí xong tặc đảng Dương
Thanh vào tháng 3 năm 820, tuy nhiên chỉ là ‘xử trí xong’ – không biết ‘xử trí
xong’ này có bao gồm việc ‘giết’ không? Hay chỉ là thu hồi An Nam và đánh bại
Dương Thanh? Tân Đường thư thì viết rõ hơn: tháng 3 năm 820 giết Dương Thanh.
Tuy nhiên Âu Dương Tu sinh vào thời điểm Sách phủ nguyên qui
được soạn và đi học khi sách này được in ấn, do vậy mà chúng ta có thể đặt giả
thuyết rằng: khi viết Dương Thanh bị giết vào tháng 3 năm 820 trong Tân Đương
thư không loại trừ khả năng, Âu Dương Tu tham khảo Sách phủ nguyên qui. Mà Sách
phủ nguyên qui là sách đầu tiên viết về mốc thời điểm ngày 29 tháng 3 năm 820,
nhưng lại chép dựa trên một bản tấu và cũng chỉ viết là ‘xử trí xong tặc đảng
Dương Thanh’.
Như vậy thì dù có nhiều sách chép về sự kiện này đi chăng nữa
thì suy tới cùng vẫn chỉ dừng lại ở việc: Dương Thanh bị giết vào ngày 29 tháng
3 năm 820 là dựa vào bản tấu (của Quế Trọng Võ) gửi triều đình. Vì sao Âu Dương
Tu không chép là ‘xử trí xong’ mà lại chép là ‘giết’? Có thể là do Tu tham khảo
Cựu Đường thư nên viết vậy! Vậy thì sao Vương Khâm Nhược và Dương Úc lại không
viết là ‘giết tặc đảng Dương Thanh’ mà lại chép là ‘xử trí xong tặc đảng
Dương Thanh’? Có 2 lý do, thứ nhất từ ‘xử trí xong’ trong Sách phủ nguyên qui
đã bao hàm việc ‘giết’ và thứ hai là tác giả muốn giữ nguyên văn của bản tấu.
Trong trường hợp thứ nhất thì hoàn toàn có cơ sở vì Vương
Khâm Nhược và Dương Úc hoàn toàn biết chuyện Quế Trọng Võ gửi thủ cấp của Dương
Thanh về triều đình vào tháng 8 năm 820 trong Cựu Đường thư.
Trong trường hợp thứ hai, nếu đúng thì tại thời điểm triều định
nhận được bản tấu, Võ vẫn chưa giết được Thanh, nên chỉ viết là ‘xử trí xong’
(nghĩa là đánh bại và thu hồi An Nam, mà chưa giết được Dương Thanh), sau đó
khi tàn quân của Thanh ra hàng, lúc này Võ mới giết được Thanh và gửi đầu về
triều đình, do vậy mà thời gian giữa việc gửi bản tấu và thủ cấp mới có sự khác
nhau.
Nếu vậy thì hiểu sao về việc ghi chép của Lưu Hu trong Cựu
Đường thư đây, nếu như nguyên văn bản tấu của Quế Trọn Võ chỉ là ‘xử trí xong’?
Có thể là khi soạn sách sử, do biết rằng: Dương Thanh đã bị giết (thông qua việc
gửi thủ cấp về phương bắc) nên Lưu Hu đã sửa câu văn trong bản tấu của Quế Trọng
Võ từ ‘xử trí xong’ sang ‘giết’.
Nếu vậy thì, câu chuyện trong bản tấu liên quan mật thiết tới
sự kiện ‘gửi thủ cấp của tặc đảng Dương Thanh về triều đình’. Vậy thì lại liên
quan tới câu hỏi thứ ba: Liệu rằng triều đình phương bắc có thể nhận biết được
thủ cấp của Dương Thanh hay không?
Câu hỏi thứ bảy của chúng ta ở đây là: Liệu rằng Quế Trọng
Võ có thể tấu báo sai với triều đình phương bắc không? Như chúng ta biết sau
khi nhậm chức An Nam đô hộ, Quế Trọng Võ án binh, sau 4 tháng không có kết quả
gì, liền bị triều đình biếm làm An Châu thứ sử, dùng tiền An Nam đô hộ Bùi Hành
Lập thay thế chức vụ của ông, vậy mà chỉ sau hơn 1 tháng kể từ ngày có chiếu lệnh
của triều đình (ngày 22 tháng 2 năm 820) Trọng Võ đã hạ được phủ thành vào ngày
29 tháng 3 năm 820.
Tuy rằng Hành Lập không thể nhậm chức An Nam đô hộ lần thứ 2
do bị chết tại trấn Hải Môn, nhưng qua việc triều đình phương bắc lựa chọn Lập
để thay Võ, cho thấy sự kỳ vọng của triều đình vào kinh nghiệm và mối quan hệ của
vị tiền An Nam đô hộ này, gợi ý chúng ta: Việc các tù hào mở cửa thành ra hàng
là do hình phạt hà khắc của Dương Thanh, cùng với chính sách chiêu dụ của Trọng
Võ hay là do uy tín của Bùi Hành Lập? Khi triều đình cử Trọng Võ làm An Nam đô
hộ là đã kỳ vọng một trận chiến thu hồi đất cũ, nhưng sau lại cử Hành Lập, cho
thấy triều đình biết tình hình ở An Nam và đã thay chiến thuật từ xung đột vũ
trang sang chiêu dụ, do vậy thành quả của việc các tù hào ra hàng không biết là
do công của Trọng Võ hay uy tín và mối quan hệ của Hành Lập hay cả hai?
Kết luận: Với những tài liệu như hiện có tôi đặt giả thuyết
rằng năm 819 Lý Tượng Cổ nhậm chức An Nam đô hộ thay Bùi Hành Lập, Tượng Cổ
không sử dụng các tù hào mà sử dụng người phương bắc, hơn thế nữa lại có chính
sách kiềm toả các thủ lĩnh người bản địa, trong đó có Thứ sử Dương Châu là
Dương Thanh bị gọi về làm nha tướng.
Trong hoàn cảnh các thế lực bên ngoài biên cảnh đang lớn mạnh,
nhân sự kiện buộc phải đi dẹp giặc Man Hoàng Động phía bắc, Thanh đã liên kết lại
với giặc, quay mũi giáo, làm phản, tân công phủ thành, tin này nhanh chóng lan
rộng, các tù hào ở khắp nơi tới hưởng ứng, cùng Thanh tấn công và hạ phủ thành.
Nhận được tin, triều đình cử Quế Trọng Võ làm An Nam đô hộ,
với kỳ vọng một trận chiến giành lại đất cũ, thế nhưng không hiệu quả, do vậy
triều đình thay chiến lược, cử Hành Lập làm An Nam đô hộ, muốn dựa vào kinh
nghiệm và các mối quan hệ mà tiền Đô hộ An Nam này thiết lập được để chiêu dụ
các tù hào.
Kết quả là Lập chết khi đang trên đường đến nhậm chức, các
tù hào mở cửa thành ra hàng, Dương Thanh và tàn quân rút chạy về giữ đất Tạc
Khê (Trường Châu). Chiếm được phủ thành, nhưng chỉ kiểm soát được Giao Châu, An
Nam đô hộ Quế Trọng Võ gửi tấu về triều đình vào tháng 6 năm 820 là ‘giết được
đầu đảng tặc Dương Thanh và thu hồi An nam’ và gửi thủ cấp giả của Dương Thanh
về triều đình vào tháng 8 năm 820.
Năm 822 Lý Nguyên Hỉ làm An Nam đô hộ, năm 824 Man Hoàng Động
và Hoàn Vương tấn công An Nam, năm 825 Hỉ rời phủ thành về phía bắc sông Tô Lịch,
năm 827 Hàn Ước làm An Nam đô hộ, bị Thứ sử Phong Châu là Vương Thăng Triều chống
đối, năm 828 Ước bị quân trong phủ (phối hợp với Dương Thanh) đuổi khỏi An Nam.
Nhà Đường mất kiểm soát An Nam hoàn toàn cho tới năm 836 khi Mã Thực được làm
Đô hộ.