Qua cuộc khảo sát và nghiên cứu gần đây, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện 4 di tích lịch sử văn hóa thờ danh nhân Phạm Cự Lạng. Đó là đình Đoài thuộc xóm Ngói, xã Hà Châu, huyện Phú Bình, đình Hoàng Đàm, xóm Hoàng Đàm, xã Nam Tiến, đình Thượng Giã, xã Thuận Thành, nghè thôn Nam Đô, làng Đông Cao, huyện Phổ Yên.
Qua cuộc khảo sát di tích thuộc địa bàn huyện Phú Bình và Phổ
Yên gần đây, Sở Văn hoá Thông tin Thái Nguyên đã phát hiện 3 di tích lịch sử
văn hoá thờ danh nhân Phạm Cự Lạng- người được phong làm Thái úy, thời vua Lê
Hoàn. Đó là các di tích: Đình Đoài, thuộc xóm Ngói, Hà Châu (Phú Bình); đình
Hoàng Đàm, xóm Hoàng Đàm, Nam Tiến, nghè thôn Nam Đô, làng Đông Cao và đình Thượng
Giã, Thuận Thành (Phổ Yên).
Thực tế cho thấy, trải qua 2 cuộc chiến tranh kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hầu hết các di tích này không còn nguyên vẹn, thậm
chí di tích không còn nhưng thần tích, sắc phong còn lưu giữ được.
Đây là những di tích
lịch sử văn hoá đã được nhân dân lập nên từ xưa để thờ cúng và truyền lại cho
thế hệ sau. Trong số 3 di tích nói trên, dựa vào nguồn lưu trữ thần tích và sắc
phong ở tại di tích và Thư viện Trung ương đều còn gìn giữ được: Như đình Đoài
còn tới 17 sắc phong, 1 thần tích, đình Hoàng Đàm 6 sắc phong, 1 thần tích.
Đối chiếu với nội dung bản thần tích của đình Đoài với cuốn
Thư mục thần sắc, thần tích do Viện Thông tin khoa học xã hội Việt Nam- Hà Nội
(1995) đang lưu giữ có bản sao các sắc phong và thần tích viết về tướng Phạm Cự
Lạng và sách Đại Việt sử ký toàn thư đều cho biết về thân thế và sự nghiệp của
Phạm Cự Lạng (thần tích gọi là Phạm Cự Lượng) như sau: Phạm Cự Lạng sinh ngày
20 tháng 11 năm 944, người làng Trà Hương, Nam Sách, Hải Dương.
Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống võ nghệ. Ông
nội là Phạm Chiêm, giữ chức Đông Giáp tướng quân đời Ngô Quyền. Cha là Phạm Mạn,
làm tham chính đô đốc đời Ngô Nam Tấn vương (Xương Văn), mẹ là Trần Thị Hồng.
Ông bà có 8 người con, 5 trai, 3 gái đều hiển đạt.
Lễ giỗ danh nhân, danh tướng Phạm Cự Lạng tại đình Thượng Giã, Phổ Yên, Thái Nguyên
Ngay từ nhỏ đức ông Phạm Cự Lạng đã tỏ rõ tư chất thông
minh, có chí lớn, văn võ đều thấu hiểu. Ông thường cùng anh cả là Phạm Hạp đem
tiền của chiêu dụ mọi người, mua ngựa luyện quân. Khi vua Đinh Bộ Lĩnh dấy binh
dẹp loạn 12 sứ quân, tướng Phạm Cự Lạng cùng Phạm Hạp đem hơn 2000 người, ngựa
từ quê đến Hoa Lư phò Đinh Bộ Lĩnh. Tướng Phạm Cự Lạng được phong chức Phòng Ngự
sứ tiên phong Tướng quân ra giữ cửa biên Đại Ác.
Năm Mậu Thìn (968), dẹp xong loạn 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh
lên ngôi Hoàng Đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng
đô ở Hoa Lư, tướng Phạm Cự Lạng được phong Tâm phúc tướng quân coi việc Thị vệ
Quan thân cận của nhà vua.
Năm 979, vua Đinh và Nam Việt vương Đinh Liễn bị sát hại,
Đinh Toàn mới 6 tuổi được lập lên ngôi vua. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc
và anh Phạm Cự Lạng và Phạm Hạp thấy uy quyền của Phó vương Lê Hoàn quá lớn bèn
khởi binh chống Lê Hoàn nhưng đã bị Lê Hoàn dẹp tan. Phạm Hạp bị vua Lê Hoàn xử
tử. Tuy vậy, đức ông Phạm Cự Lạng vẫn được Lê Hoàn tin dùng làm tướng dưới quyền.
Năm sau, nhà Tống nhân lúc nước Đại Việt rối ren, liền nảy ý
đồ đánh chiếm, sai quan trấn thủ Ung Châu Hầu Nhân Bảo cùng các tướng Tôn Toàn
Hưng, Vương Soạn, Triệu Phụng Huân đem quân theo hai đường thuỷ bộ vào xâm lược
nước ta. Tình thế Đại Cồ Việt vô cùng nguy cấp.
Tháng 7 năm ấy, Thái hậu Dương Vân Nga phong Phạm Cự Lạng
làm Đại tướng tiên phong đem quân đi chống giặc. Trước lúc tiến quân, Phạm Cự Lạng
hội quân sỹ ở cửa Đào Lâm (chưa rõ nay thuộc địa phận nào), nói rằng: “Bây giờ
quân giặc sắp vào cõi mà chúa thượng hãy còn nhỏ tuổi, lấy ai mà thưởng phạt
cho chúng ta… chẳng bằng nay ta tôn Thập đạo tướng quân lên ngôi thiên tử đã, rồi
sau sẽ xuất quân”. Quân sỹ nghe nói đều hô vang vạn tuế.
Sau chiến thắng chống quân Tống, Lê Hoàn lên ngôi Hoàng Đế,
Phạm Cự Lạng được phong làm Thái uý. Cuối mùa xuân năm Tân Tỵ (981), mọi mũi tiến
quân của quân Tống đều bị quân Đại Cồ Việt phá, tướng giặc Hầu Nhân Bảo chết trận,
quá nửa quân Tống bị tiêu diệt, buộc vua Tống xuống chiếu lui quân.
Năm Nhâm Ngọ (982), tướng Phạm Cự Lạng đuợc tin trao trọng
trách đi khai sông mới từ Đồng Cổ đến Bà Hoà (tức từ Đan Nê, Yên Định đến Đồng
Hoà, Tĩnh Gia, Thanh Hoá ngày nay). Trên đắp thành đường lớn, dưới khai thành sông
lớn đẻ lưu thông thuỷ bộ. Cũng trong năm này, tướng Phạm Cự Lạng còn chỉ huy
đào cảng Đa Cái ở Hoan Châu (tức Hương Cái, Hưng Nguyên, Nghệ An ngày nay).
Ngày 12 tháng 9 năm Giáp Thân (984), tướng Phạm Cự Lạng mắc
bệnh sốt rét, mất tại Đồng Cổ, nơi ông đang làm viẹc. Nhà vua thương tiếc sai
người đem di hài Phạm Cự Lạng về kinh đô Thăng Long, an táng tại phía nam Bồ
Sơn. Hưởng thọ 41 tuổi.
Ghi nhớ công ơn của Phạm Cự Lạng ở Đồng Cổ và Đa Cái hiện
còn đền thờ ông. Tại Hà Nội, đời vua Lý Thái Tông (1028-1054) giao cho Bộ Lễ viết
sắc phong: “Thần Phạm Cự Lạng làm Hoành Thánh Đại Vương” chuyên xét việc hình
ngục, thờ tại đền Ngự Sử (nay là đền Lương Sử thuộc phường Văn Miếu - Quốc Tử
Giám-Hà Nội). Tại Hưng Lộc (Nghĩa Hưng, Nam Định) cũng có đền thờ Phạm Cự Lạng
ghi lại di tích tương tự như đền thờ Lương Sử.
Qua nghiên cứu các sắc phong và thần tích (2) còn lưu giữ được
ở đình Đoài, xã Hà Châu (Phú Bình) đình Hoàng Đàm (Phổ Yên) và đình Thượng Giã
thì trong các bản thần tích đều gọi tên ông là Phạm Cự Lượng, tỏ ý tôn trọng
tên tục của ông và ghi rõ tên hiệu của ông là Hồng Thánh Khuông Quốc Trung Vũ
Tá Trị Đại Vương, thời Lý Thái Tông
Ngoài các di tích thuộc địa bàn các tỉnh: Thanh Hoá, Nghệ
An, Hà Nội và Nam Định (Hải Dương quê ông có đền thờ ông không?) có tỉnh Thái Nguyên
còn 4 di tích thờ ông. Sắc phong và bài vị của đình Đoài được vua Tự Đức thứ 33
(1881) ban sắc phong cho tướng Phạm Cự Lạng những chữ như sau: “Cương kiên
trung kiêu địch quả trang vũ quang ý Khuôn Quốc trung đẳng thần”…
Như vậy, qua việc phát hiện các tài liệu Hán nôm tại các di
tích nói trên cho biết thêm về 4 nơi thờ Phạm Cự Lạng, một nhân vật lịch sử nổi
tiếng thời xưa của tỉnh Hải Dương là điều đáng quý bởi như sử sách đã ghi chép
ông là một người có công với dân, với nước cho nên nhân dân tỉnh Thái Nguyên
cũng thờ ông.
Đình Thượng Giã được UBND tỉnh Thái Nguyên công nhận là di
tích lịch sử cấp tỉnh vào tháng 2 năm 2014. Hiện nay trong Đình còn lưu giữ một
số hiện vật cổ như bàn thờ cổ, cối đá, thần tích sắc, 7 tượng gỗ, hương ước và
1 tấm bia cổ.
Phần lễ của lễ hội diễn ra trang nghiêm, bao gồm: Rước lễ
vào đình được thực hiện bởi 6 tổ dân cư trong xóm, lễ cúng tế và làm lễ dâng
hương tại đình, cầu cho mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. Phần hội với nhiều
trò chơi dân gian như kéo co, nhảy phỗng, giao lưu văn nghệ… thu hút đông đảo
bà con nhân dân và các du khách thập phương tham gia.
Nguyễn Đình Hưng