Trong số những người góp công đưa đức ngài Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, nhà sư Vạn Hạnh và Thái sư Á vương Đào Cam Mộc được xếp ở vị trí đệ nhất khai quốc công thần. Nếu nhà sư Vạn Hạnh là người nêu ý tưởng thì Thái sư Đào Cam Mộc là người tổ chức và trực tiếp chỉ huy việc đổi ngôi không đổ máu và diễn ra nhanh chóng.
Theo sử sách ghi lại, Đào Cam Mộc quê ở xã Định Tiến, huyện
Yên Định (Thanh Hóa). Sau khi cha mất, ông được mẹ đưa về ngoại làng Nam Thạch,
xã Yên Trung nuôi dưỡng. Từ nhỏ Cam Mộc tỏ rõ thông minh, khỏe mạnh.
Đào Cam Mộc sinh ra ở thôn Tràng Lang, xã Định Tiến, huyện định.
Sau khi cha mất, ông được mẹ đưa về quê ngoại ở xã Yên Trung, huyện Yên Định.
Tích xưa kể lại: Một hôm, bà mẹ Cam Mộc ra sông Mã gánh nước,
có quả bầu trôi cứ quẩn vào chân. Thấy lạ, bà vớt lên đem về nhà. Ít lâu sau,
bà mang thai; đến lúc Cam Mộc ra đời, trong nhà có ánh hào quang tỏa rạng, mới
biết sinh được quý tử. Sau này, khi mẹ của Đào Cam Mộc qua đời, người dân địa
phương xây mộ bà tại vị trí linh thiêng của làng; quanh năm khói nhang thờ phụng
bày tỏ lòng biết ơn người mẹ hiền đã có công sinh dưỡng cho quê hương, đất nước
một người tài.
Phần mộ thân mẫu Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc.
Khi vua Lê Đại Hành về Thanh Hóa tuần du trên sông Mã (đoạn
chảy qua Yên Trung, nay sông Mã đã đổi dòng) thuyền bị mắc cạn. Đào Cam Mộc đã
dùng sức khỏe và mưu mẹo đưa được đoàn thuyền vượt qua bãi cạn. Từ đó ông được Vua
Lê tin dùng và dần thăng chức Chi Hậu.
Đệ nhất khai quốc công thần
Trong số những người góp công đưa đức ngài Lý Công Uẩn lên
ngôi hoàng đế, nhà sư Vạn Hạnh và Thái sư Á vương Đào Cam Mộc được xếp ở vị trí
đệ nhất khai quốc công thần. Nếu nhà sư Vạn Hạnh là người nêu ý tưởng thì Thái
sư Đào Cam Mộc là người tổ chức và trực tiếp chỉ huy việc đổi ngôi không đổ máu
và diễn ra nhanh chóng.
Triều Tiền Lê, vào đời vua Long Đĩnh (1006 – 1009), bắt đầu
mục nát. Vua làm việc càn rỡ, tàn bạo. Trong nước lòng dân oán thán, bên ngoài
giặc Tống rình rập xâm lấn. Lúc bấy giờ, uy tín của quan Thân vệ Lý Công Uẩn
ngày càng cao cả trong và ngoài triều. Nhà sư Vạn Hạnh có lần nói với Lý Công Uẩn:
"Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên
cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng
Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân lại đang nắm binh quyền trong
tay, đứng đầu muôn dân, chẳng phải Thân vệ thì ai đương nổi nữa". Đó là ý
tưởng táo bạo và hợp thời của nhà sư Vạn Hạnh… Tuy nhiên, để thực hiện thành
công ý tưởng đó và góp phần xây dựng triều Lý hưng thịnh cần có sự trợ giúp đắc
lực của quan Chi hậu Đào Cam Mộc.
Tháng 7, ngày Tân Hợi, năm Kỷ Dậu (1009), vua Lê Ngọa Triều
băng hà, thái tử còn bé. Lý Công Uẩn cùng với Hữu điện tiền chỉ huy sứ là
Nguyên Đê mỗi người đem 500 quan Tùy Long vào làm túc vệ.
Theo sách Đại Việt Sử ký toàn thư, khi ấy Chi hậu Đào Cam Mộc
nhân lúc vắng nói với Lý Công Uẩn rằng: "Bấy nay, chúa thượng ngu tối và bạo
ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, nên trời không cho hưởng thọ mà con nối thì
thơ ấu, không thể kham nổi việc lớn đầy khó khăn, trăm sự đều phiền nhiễu, thần
linh không ưa, dân chúng nháo nhác tìm chân chúa. Vậy, sao Thân vệ không nhân
cơ hội này mà nghĩ mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa thì xem dấu cũ của vua
Thang, vua Vũ, gần thì xem việc của họ Đinh, họ Lê… trên thuận lòng trời, dưới
hợp lòng người, chứ cứ khư khư giữ chút tiết hạnh bề tôi nhỏ nhoi hay
sao?"
Lý Công Uẩn sợ Đào Cam Mộc có mưu khác nên dọa bắt nạp cho
bá quan. Đào Cam Mộc không sợ mà nói tiếp: "Tôi thấy việc trời và người
như thế cho nên mới dám nói ra. Nay ông muốn tố cáo tôi thì tôi cũng xin thưa rằng
tôi đâu sợ chết!". Lý Công Uẩn nói: "Tôi đâu nỡ tố cáo ông, chẳng qua
vì sợ lời nói của ông mà tiết lộ ra thì chúng ta đều phải chết nên mới răn như
thế đó thôi".
Ghi chép về việc này, sử sách có ghi: “Ngay ngày hôm đó, Đào
Cam Mộc nói với triều thần rằng hiện nay dân chúng khác lòng, trên dưới lìa ý,
mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nối mà đều
có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng nhau sách lập Thân
vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có xảy tai biến gì, chúng ta có giữ được cái đầu
không? Mọi người vui vẻ nghe lời, dìu Lý Công Uẩn lên điện, tôn lên ngôi Hoàng
đế, trăm quan đều quỳ dưới sân, tung hô vạn tuế”.
Theo sử ghi như vậy thì: Cuộc thay ngôi diễn ra nhanh chóng.
Vai trò của Đào Cam Mộc như vậy thực là quan trọng. Chắc chắn là ông đã ngầm vận
động các triều thần. Thực tế trong triều tất thể nào cũng còn hoàng thân quốc
thích nhà Lê cùng những kẻ cận thần sủng ái của Ngọa Triều. Vậy mà cuộc đảo
chính diễn ra êm thấm, “vui vẻ” không có một phản ứng chứng tỏ sức sắp đặt, bài
binh bố trận tài tình của Đào Cam Mộc. Sự kiện này mở ra triều đại nhà Lý kéo
dài 216 năm (1009 – 1225).
Đào Cam Mộc, vị công thần triều Lý hết lòng chăm lo việc
dân, việc nước.
Ngoài công lớn trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, Đào Cam
Mộc còn có công giúp Lý Công Uẩn xây dựng cơ nghiệp nhà Lý buổi ban đầu. Vì vậy,
ông đã được Lý Thái Tổ phong tước là Nghĩa Tín hầu, sau này thăng đến chức Thái
sư và gả công chúa đầu là An Quốc cho ông. Khi triều chính tạm ổn định, tháng 2
năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) nhà vua cùng phò mã Đào Cam Lộc đi kinh lí các
tỉnh miền ngoài để tìm đất định đô lâu bền. Và quyết định rời đô về Thăng Long
của Lý Thái Tổ cũng có một phần đóng góp ý tưởng và công sức của Đào Cam Mộc.
Tượng thờ Thái sư Vương Đào Cam Mộc.
Tương truyền, khi được vua Lý Thái Tổ trao trọng trách dời
đô, Đào Cam Mộc chuẩn bị hai đoàn thuyền gồm 300 chiếc, một ngả đi đường biển
qua vùng đất huyện thành Đại La; một ngả nơi sông Nhị cũng lên thành Đại La.
Khi thuyền đến chân thành, thấy có hai con rồng vàng hiện ra chào đón, nhà vua
mới gọi là kinh thành Thăng Long.
Theo hai bản thư tịch Ngọc phả tướng Đào Cam Mộc và Công
chúa Thiềm Hoa – An Quốc tại phủ Vũ Bị, xã Vũ Bản, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam
và bản Tự phả chùa Đông Hải – chùa Thiên Đô, nay là đền Vệ xã Khánh Phú, huyện
Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình, cho ta biết thêm một số tư liệu về cuộc đời và sự
nghiệp của vị công thần bậc nhất triều Lý.
Ngọc Phả phủ Vũ Bị do Tiến sĩ Phạm Tráng quê ở Dụng Nhuệ,
huyện Giáo Thủy, tỉnh Nam Định, soạn ngày 2-2 niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (Nhâm
Tuất 1502). Minh Mệnh năm thứ 12 (1831) được Tam giáp Ngô Thế Vinh quê Bái
Dương huyện Nam Trực (Nam Định) chép.
Bản "Tự phả chùa cổ Đông Hải", do Minh Tuệ thiền
sư trụ trì chùa chép năm Canh Tý (1840), cũng theo Ngọc phả thời Lê do Quản
giám bách thần Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc (1557) ghi rằng: Chùa này có từ
thời Đinh – Tiền Lê, gần biển nên gọi là chùa Đông Hải. Thời trẻ Đào Cam Mộc từng
tu học, giỏi võ, thông văn được sư tổ cho đi tìm minh quân, sau đó ông vào Hoa
Lư làm quan cho nhà Tiền Lê, nhà Lý. Tháng 6-1010, Lý Thái Tổ phong Đào Cam Mộc
chức Thiên Đô tiên phong tướng quân chỉ huy cuộc dời đô, tại đây triều đình làm
Lễ tế cáo trời đất, xuất quân nên từ đó đổi tên là chùa Thiên Đô.
Trong Phả chép rằng, mùa xuân năm 1010, Lý Thái Tổ về quê
Kinh Bắc thăm tổ đường, trên đường trở lại Hoa Lư, Lý Thái Tổ ghé thăm đất
Hương Ngư, huyện Thượng Hiền (nay là thôn Vũ Bị, xã Vũ Bản), các cuộc tuần du
có phò mã Đào Cam Mộc hầu giá, coi như chuyến khảo sát cuối cùng cho công cuộc
dời đô.
Thấy đất Vũ Bị thế đẹp, dân làng thuần hậu, phò mã xin vua
nhận đất để sau này đưa công chúa về ở. Tại đây, vợ chồng ông khuyên dân tương
thân xư xử, tương trợ cấy cày, xây dựng thuần phong mỹ tục. Công chúa An Quốc
xuất tiền riêng mở mang ruộng đất, xin vua cha dựng bia thế nghiệp, đến nay phủ
Vũ Bị còn giữ hai tấm đá cổ, các nhà chuyên môn gọi là Thạch Kiệt, hiểu chung
là mốc ruộng đất "Sắc cấp tứ" nhà vua cấp cho người có công. Thạch Kiệt
được dựng vào năm Hồng Thuận thứ 5, ngày 25-2 năm 1513, ghi chép trên 140 mẫu
ruộng ở các xứ trong vùng, xa nhất là đồng Ba, thuộc xã Đồn Xá, huyện Bình Lục.
Các di tích thờ vợ chồng Đào Cam Mộc đều có đền miếu nguy
nga, được các vua nhà Nguyễn ban 10 đạo sắc phong, các nhà khoa bảng đề thơ ca
tụng… Hằng năm dân làng thường xuyên mở hội.
Sớm khôi phục các đền thờ Đào Cam Mộc
Sau 6 năm phò Lý Thái Tổ ổn định triều chính, Thái sư Đào
Cam Mộc đã tạ thế tại tư dinh nay thuộc đất Cổ Loa (Đông Anh – Hà Nội) năm Thuận
Thiên thứ 6 (1015). Để ghi nhớ công ơn vị khai quốc công thần, Lý Thái Tổ đã
truy phong cho ông chức vị cao nhất là Á Vương, cho xây đền thờ Thái sư Á Vương
Đào Cam Mộc ngay tại tư dinh và ban tặng câu đối: "Lý triều định đô vương
tứ phúc/ Đào trạng văn quan Quốc ân thân".
Cùng với đền thờ tại tư dinh trên đất Cổ Loa, Thái sư Á
Vương Đào Cam Mộc cũng được lập đền thờ tại nhiều nơi. Ông là một trong 3 vị
quan (Đào Cam Mộc, Lý Thường Kiệt, Lê Phụng Hiểu) được thờ ở Võ chỉ thuộc đền
thờ Lý Bát Đế (Đền Đô, thuộc xã Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh)
Nhà Võ Chỉ ở Đền Đô, nơi thờ Đào Cam Mộc, Lê Phụng Hiểu và
Lý Thường Kiệt. (Nguồn Internet)
Tại quê hương, huyện Yên Định (Thanh Hóa), ông được dân thờ ở
3 nơi là chùa Hưng Phúc (xã Đinh Tiến, quê nội), nghè làng Nam Thạch (xã Yên
Trung, nơi có đền thờ chính) và nghè làng Bùi Hạ (xã Yên Phú). Các triều đại
sau này đều đánh giá cao công lao của Đào Cam Mộc đối với đất nước và phong ông
là Thượng thượng đắng Tối linh Phúc thần. Điều này được ghi trong một số sắc
phong còn lại được giữ tại xã Yên Trung, huyện Yên Định, Thanh Hóa ngày nay.
Đền thờ Đào Cam Mộc ở xã Yên Trung.
Tuy nhiên, cả 3 nơi thờ phụng này đều đã bị phá hủy bởi chiến
tranh hoặc đổ nát cách đây hơn nửa thế kỷ. Nhưng dù vậy, câu đại tự tại làng
Nam Thạch: "Sinh vi Lý Tướng, tử vi Lê thần" (Sinh làm tướng nhà Lý,
chết làm thần nhà Lê) vẫn được lưu truyền trong dân gian.
Từ nhiều năm nay, các nhà khoa học đang kiến nghị, đề xuất để
sớm khôi phục lại đền thờ Thái sư Á Vương Đào Cam Mộc giúp cho các thế hệ sau
hiểu rõ hơn và tưởng nhớ đến công ơn của vị Thái sư Á vương Đào Cam Mộc tài đức
xuất chúng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Lan Phương (tổng hợp)
Nguồn:
- Vũ Thanh Sơn, Các vị thần thời Lý, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội – 2011.
- Các đại công thần trong lịch sử Việt Nam, Nxb Lao động,
07/2013.
- Đại Việt Sử ký toàn thư, Nxb Khoa học Xã hội, 1972.