Danh tướng Lưu Cơ (chữ Hán: 劉基) là một trong những khai quốc công thần nhà Đinh, phò giúp vua Đinh Tiên Hoàng đánh dẹp loạn 12 sứ quân, đồng thời là tướng cai quản Hoàng thành Thăng Long, đã sửa thành quay về hướng nam (hướng về kinh đô Hoa Lư thay vì phương bắc) trước khi vua Lý Thái Tổ dời đô từ Hoa Lư về đây.
Năm 968, vua Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong các sứ quân, lên ngôi
vua. Chính sử cũng như thơ ca dân gian thường nói đến "Tứ trụ Bặc, Điền,
Cơ, Tú" tức là bốn vị công thần trụ cột của triều nhà Đinh, là Nguyễn Bặc,
Đinh Điền, Lưu Cơ và Trịnh Tú.
Tượng Đô hộ phủ sĩ sư - phò mã Lưu Cơ tại đền Ngọc Sơn - Ninh Bình.
Tứ trụ là các vị dũng tướng thân cận giúp vua Đinh dẹp sứ
quân, thống nhất đất nước. Đô hộ phủ sĩ sư Lưu Cơ cũng được xem là người đầu
tiên trong lịch sử Việt Nam nắm giữ quyền hình pháp.
Tiểu sử
Theo sách Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, tướng Lưu
Cơ người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng (Ninh Bình). Trong "Đại vương Ngọc phả
lục" (còn gọi là Đình Phả đình Đại Từ) ghi Lưu Cơ quê ở trang Tri Hối, huyện
Gia Viễn (nay là thôn Tuy Hối, xã Gia Tân, huyện Gia Viễn, Ninh Bình).
Theo một số thần tích và ghi chép khác thì dức Lưu Cơ người
quê ở Bồ Bát, Bạch Liên, Yên Mô, Ninh Bình. Tuy nhiên, theo cuốn "Những
nhân vật lịch sử thời Đinh Lê" thì Đức ông là người cùng làng và cùng tuổi
với (vua) Đinh Tiên Hoàng, cha là Lưu Hỷ, mẹ là Lê Thị Lao.
Hai người lấy nhau hơn 10 năm không có con. Sau khi đi cầu tự
đền Sơn Thần ở Bạch Bát (nay thuộc xã Yên Thành, Yên Mô, Ninh Bình) đến ngày mồng
3 tháng 1 năm Giáp Thân 924 sinh ra ông. Từ thuở nhỏ, đức ông đã cùng Đinh Điền,
Nguyễn Bặc, Trịnh Tú kết bạn với Đinh Bộ Lĩnh, cùng nhau chơi trò đánh trận cờ
lau.
Theo Đại Việt sử lược, cuốn sử đời Trần duy nhất ghi rằng, đức
ông Lưu Cơ sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm 940. Gần đây, có nhiều ý kiến ủng hộ giả
thuyết ông sinh năm 940, tức là cùng quê nhưng khác năm sinh và cả năm mất với
Đinh Bộ Lĩnh và 3 vị tứ trụ triều đình còn lại là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh
Tú. Cũng theo giả thuyết này thì ông sống tận đến tận khi giao thành Đại La cho
Lý Công Uẩn.
Theo thần tích đình Đồng Hạ ở xã Đức Hợp, huyện Kim Động, tỉnh
Hưng Yên thì Lưu Cơ có người em trai tên là Lưu Lang. Năm 13 tuổi cha mẹ đều mất,
ông Lưu Lang theo anh là Lưu Cơ, cùng Nguyễn Bặc, Đinh Điền cầm đầu bọn trẻ
chăn trâu.
Sau đó, ông Lưu Lang cùng về Tế Giang, Đằng Châu, Bố Hải dẹp
được 12 sứ quân và tôn Đinh Bộ Lĩnh lên làm vua. Vua Đinh Tiên Hoàng phong Lưu
Cơ là Đô hộ phủ sĩ sư, Lưu Lang là Phó sĩ sư.
Sự nghiệp dẹp loạn 12 sứ quân
Tướng Lưu Cơ là đồng hương gần với (vua) Đinh Bộ Lĩnh, Nguyễn Bặc,
Đinh Điền, Trịnh Tú. Lớn lên theo học Tri Hối tiên sinh ở Gia Viễn. Sau khi cha
mẹ mất, ngoài 20 tuổi ông theo vua Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân. Các tướng
Đinh Điền, Trịnh Tú và Nguyễn Bặc cũng tham gia vào đại quân của (vua).
Khi Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn tử trận (965), các sứ quân nổi
dậy. Lưu Cơ theo (vua) Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp. Ông đã trực tiếp dẹp sứ quân Lý Khuê ở
Siêu Loại.
Năm 968, (vua) Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi lấy hiệu là Đinh Tiên Hoàng. Nguyễn
Bặc được phong làm Định quốc công, Đinh Điền được phong làm ngoại giáp, Lưu Cơ
được phong làm Đô hộ phủ sĩ sư vào năm 971. Theo Đại Việt sử lược thì chức vụ
Đô hộ phủ sĩ sư của Lưu Cơ chính là Thái sư ở Đô hộ phủ Đại La (chức quan đầu
triều trông coi hình án, kiêm chức Thái sư, cai quản phủ đô hộ cũ và đóng phủ
đường ở Đại La).
Vai trò này của Lưu Cơ được đánh giá là sánh ngang hàng Phó
Vương, giúp Đinh Tiên Hoàng cai quản phần đất trọng yếu và nhiều tiềm năng kinh
tế nhất của nước Đại Cồ Việt đương thời.
Công thần nhà Đinh
Cuối năm 979, Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị
sát hại. Quan Chi hậu nội nhân là Đỗ Thích bị nghi là thủ phạm hàng đầu, sợ hãi
bỏ trốn rồi bị Nguyễn Bặc bắt và chém. Người con còn lại của Đinh Tiên Hoàng là
Đinh Toàn được lập làm vua. Thập đạo tướng quân Lê Hoàn dành lấy quyền lớn trong triều.
"Tứ trụ" Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ
cùng trung thần Phạm Hạp muốn giữ ngôi nhà Đinh cho ấu chúa, nhưng bị Lê Hoàn
đánh thua: Đinh Điền, Phạm Hạp chết tại trận, Nguyễn Bặc bị bắt sống đem về
chém tại Hoa Lư. Còn Lưu Cơ và Trịnh Tú thì bị phục kích ở Bãi Vàng.
Hai ông cùng hai bộ tướng chống cự quyết liệt, giết được bốn
tướng của Lê Hoàn, nhưng cuối cùng bị quân đông hơn bao vây tiêu diệt. Thế là
hai bên có tám tướng chết ở trận đó. Sau, dân làng Hoa Lư xây " Bát long tự"
sát phía đông Bãi Vàng để thờ giải oan cho tám người.
Chính sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử
thông giám cương mục chỉ xác nhận việc chống Lê Hoàn của Nguyễn Bặc, Đinh Điền
và Phạm Hạp, không nhắc tới Lưu Cơ và Trịnh Tú tham gia việc này. Nguồn tài liệu
phản ánh việc Lưu Cơ tham gia chống Lê Hoàn là thần phả.
Đóng góp với kinh đô mới
Theo ý kiến khác dựa vào thần phả các di tích thành Đại La
thì ông là thái sư Đô hộ phủ, cai quản toàn bộ Giao Châu, đóng đại bản doanh ở
Phủ Đô hộ cũ, tức thành Đại La. Khi đó ông chừng 30 tuổi. Theo ý kiến này, Lưu
Cơ không chết về tay Lê Hoàn mà phục vụ cho Lê Hoàn. Ông còn sống tới thời Lý
Thái Tổ và tiếp tục phục vụ nhà Lý, với vai trò trấn thủ Đại La như trước.
Thành Đại La vốn là trung tâm cai trị của chính quyền đô hộ
phương Bắc thời Bắc thuộc, được thiết kế mặt thành phía bắc là mặt chính, mở ba
cửa và trên đó đều có lầu che. Hai mặt đông tây cũng có ba cửa không lầu che.
Riêng mặt nam là mặt thông với khu dân cư mở tới 5 cửa trên đặt trống, loa; còn
mặt chính mang tính nghi lễ hướng về phía bắc, với ý nghĩa "sự hướng bắc"
của thành Đại La gắn liền với bộ máy thần phục ở Giao Châu với nhà Đường.
Theo giới chuyên môn, Lưu Cơ là người đầu tiên biến tu sửa,
biến tòa thành Đại La thuộc địa hướng bắc trở thành một tòa thành hướng nam độc
lập tự chủ. Vì khi đó, hoàng đế Đại Cồ Việt ở Hoa Lư, tức ở về phía nam tòa
thành Đại La nên mọi hướng nhìn của cổng thành và dinh thự đời các Tiết độ sứ
cũ phải được sửa đổi.
Tính từ thời nhà Đinh, Lưu Cơ là người đã cai quản và thành
Đại La trong vòng gần 40 năm (971-1010). Ông đã tu sửa thành Đại La của An Nam
đô hộ phủ nhà Đường trở nên một tòa thành Đại Cồ Việt và chuẩn bị mọi điều kiện
cơ sở hạ tầng cho cuộc dời đô của Lý Thái Tổ có thể di chuyển từ Hoa Lư ra
Thăng Long chỉ trong một thời gian rất ngắn.
Chiếu dời đô được ban hành vào tháng 5, tòa thành Đại La khi
trở thành kinh đô Thăng Long vào tháng 7 năm 1010. Ngay khi chuyển về kinh đô
Thăng Long, triều đình nhà Lý đã nhanh chóng ổn định.
Tòa thành Đại La khi trở thành kinh đô Thăng Long vào tháng
7 năm 1010 đã là một kinh đô Đại Cồ Việt được chuẩn bị hoàn tất, mà công lao được
ghi nhận của Lưu Cơ. Ông bàn giao kinh thành Thăng Long cho Lý Thái Tổ khi gần
70 tuổi và cáo lão về hưu trí ở quê nhà, ba năm sau thì mất, thọ 73 tuổi.
Tứ trụ triều Đinh
Sách Đại Nam Quốc sử Diễn ca cũng như thơ ca dân gian thường
nói đến Tứ trụ "Bặc, Điền, Cơ, Tú" tức là bốn người trụ cột của triều
nhà Đinh, là Tể tướng Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Thái sư Lưu Cơ và Thượng
thư Trịnh Tú.
Tứ trụ là 4 vị quan thân cận, từng giúp vua Đinh dẹp loạn 12
sứ quân, thống nhất đất nước. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam: từ Đời Lý
trở đi Đinh Điền, Nguyễn Bặc cùng Trịnh Tú, Lưu Cơ đều được truy phong phúc thần.
Trường ca chữ Nôm Thiên nam ngữ lục cho rằng:
"Bốn người có
nghĩa đồng niên
Nguyễn Bặc, Đinh
Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ".
Việt giám thông khảo tổng luận bình rằng: "Đinh Tiên
Hoàng nhân khi nước Ngô loạn mất, bình được mười hai sứ quân, trời cho người
theo, thống nhất bờ cõi, dùng Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú làm người
phù tá, sáng chế triều nghi, định lập quân đội, vua chính thống của nước Việt
ta, thực bắt đầu từ đấy, kể về mặt dẹp giặc phá địch thì công to lắm!"
Quan hệ giữa Đinh Tiên Hoàng với "tứ trụ triều
Đinh" gồm "Điền - Bặc - Cơ - Tú" là sự gắn bó đẹp đẽ, bền chặt
như kim cương, không gì phả vỡ nổi, song sử sách nói tới Đinh Điền, Nguyễn Bặc
nhiều hơn Lưu Cơ, Trịnh Tú. Sử sách và dư luận dân gian nói nhiều hơn tới một bộ
ba "Đinh Tiên Hoàng, Đinh Điền, Nguyễn Bặc" vốn cùng năm sinh, năm mất,
cùng quê, cùng chí hướng.
Đánh giá về cái chết thê thảm của ba đại thần Đinh Điền,
Nguyễn Bặc, Phạm Hạp liền sau cái chết của Đinh Tiên Hoàng, sử thần Ngô Sĩ Liên
bàn: "việc khởi binh ấy không phải là làm loạn mà là một lòng phò tá họ
Đinh, đánh Hoàn không được mà chết đấy là đúng chỗ"… Đó là "bề tôi
trung nghĩa, làm không xong việc mà chết ấy là bề tôi tử tiết".
Thống nhất với chính sử, giới Nho sĩ và nhân dân cũng nhiệt
liệt ca ngợi. Gần 200 đền đài miếu mạo ở vùng Hà Nam Ninh coi Đinh Điền, Nguyễn
Bặc như một tấm gương trung liệt treo cao: "Trung quán nhật nguyệt"
(Lòng trung xuyên suốt mặt trời).
Hiện nay, các di tích đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền Tứ Trụ
(Tràng An), quảng trường Đinh Tiên Hoàng Đế đều thờ tứ trụ triều đình nhà Đinh.
Tưởng nhớ và thờ phụng
Đền thờ Lưu Cơ được lập ở làng Đại Từ, xã Đại Đồng, Văn Lâm,
Hưng Yên (đất Siêu Loại cũ). Tương truyền là nơi ông đóng quân dẹp loạn sứ quân
Lý Khuê năm xưa. Lưu Cơ và em trai Lưu Lang cũng được thờ tại Đình Đồng Hạ thuộc
địa phận thôn 1, xã Đức Hợp, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên.
Tại Gia Viễn, Ninh Bình hiện tại có Đền Ngọc Sơn (thôn Uy Viễn,
xã Liên Sơn, Gia Viễn) thờ Phò mã Lưu Cơ. Đền có từ lâu, tọa trên bờ sông Hoàng
Long; theo các sắc phong còn lưu giữ được thì đó là Đại vương triều Đinh, Thượng
đẳng phúc thần, trong đền nhân dân có dựng tượng Phò mã Lưu Cơ. Rất có thể ông
đã được Vua Đinh Tiên Hoàng gả công chúa cho vì ông cũng trạc tuổi Đinh Liễn.
Đền Ngọc Sơn - Ninh Bình, thờ phụng thái sư Lưu Cơ triều đại Đinh Tiên Hoàng.
Lưu Cơ được thờ là Thánh cả được thờ là Thành Hoàng làng nghề
gốm sứ Bát Tràng, Gia Lâm, Hà Nội. Ông được suy tôn là Lưu Thiên tử Đại vương
được thờ trong đình Bát Tràng.
Đình Bát Tràng thờ 6 vị Thành hoàng: Lưu Thiên Tử đại vương,
Đức Thánh bà - Lã Đệ tam Đại vương, Bạch Mã Đại vương, Phan Đại tướng Đại
vương, Hộ Quốc Đại vương và Cai Minh Tự Đại vương.
Trong đó Lưu Thiên Tử Đại vương là Thánh cả, được thờ ở giữa,
nơi trang trọng nhất. Ý kiến đánh giá của Ts. Nguyễn Việt cho biết Lưu Thiên Tử
Đại vương là Lưu Cơ vì Lưu Cơ là con cầu tự tại Sơn thần Bạch Bát ở Ninh Bình
(do vậy thường được gọi là "con trời cho" hay "con trời - Thiên
tử", khi mất được dân làng Bạch Bát thờ là Thành Hoàng.
Khi dân Bạch Bát mang nghề gốm sứ từ làng Bồ Bát (Bồ Bát hiện
là Bồ Xuyên và Bạch Bát) ra Bạch Thổ (Bát Tràng) lập nghiệp, cư dân các làng
thông thường khi di chuyển đi nơi khác thường lấy thành hoàng làng gốc để thờ tại
làng mới.
Đền làng Hoàng Trung thuộc xã Hồng Dương, huyện Thanh Oai là
nơi thờ Lưu Cơ và Cao Y. Đền thờ hai vị thành hoàng làng có công khai đất, lập
làng và giúp cho dân làng tránh dịch bệnh, tai ương. Lễ hội truyền thống của
làng thường diễn ra từ ngày 12 – 19.3 âm lịch hàng năm.
Tại đền Vua Đinh ở xã Yên Thắng, Ý Yên, Nam Định cũng có bài
vị thờ Lưu Cơ, Đinh Điền, Nguyễn Bặc và Trịnh Tú.
Ở Hoa Lư ngày nay còn truyền khẩu thơ "Bát long tự sự
tích ca" và một thơ khuyết danh khác ca ngợi công lao và lòng dũng cảm của
tứ trụ, trong đó có Lưu Cơ.
Ngày nay ở Ninh Bình còn rất nhiều đền thờ ông và các vị
quan trung thần khác. Theo các nhà nghiên cứu, số đền thờ các trung thần nhà
Đinh nhiều hơn số đền thờ Lê Hoàn và Dương hậu phản ánh tình cảm của dân chúng
đối với các ông. Ca ngợi công lao của tứ trụ đại thành nhà Đinh, dân gian có
câu:
Bặc, Điền, Cơ, Tú
hiên ngang
Trịnh, Lưu sau lại
Bãi Vàng hy sinh.
Hai người đi trước
quang vinh
Hai người sau sán
lung linh cõi bờ.
Điền quân sự tham
mưu Ngoại Giáp,
Bặc đứng đầu đền
đáp nghĩa ân,
Lưu Cơ Độ Hộ sức
thần,
Trịnh Tú ứng đối
xa gần mến danh.
Hiện nay, tại các di
tích đền Vua Đinh Tiên Hoàng ở Ninh Bình và Nam Định, đền Tứ Trụ (quần thể di sản
thế giới Tràng An), đình Bái ở xã Sơn Thành (Nho Quan) và quảng trường Đinh
Tiên Hoàng Đế đều thờ tứ trụ triều đình nhà Đinh, trong đó có Lưu Cơ. Quảng trường
Đinh Tiên Hoàng Đế trung tâm thành phố Ninh Bình đang xây dựng với 4 góc có tượng
4 vị quan đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ cao 5m, cùng với các
tượng lính canh và ngựa bằng đá.