Lý Thường Kiệt (chữ Hán: 李常傑; 1019 – 1105) là một nhà quân sự, nhà chính trị rất nổi tiếng vào thời nhà Lý nước Đại Việt. Ông làm quan qua 3 triều Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông và đạt được nhiều thành tựu to lớn, khiến ông trở thành một trong hai danh tướng vĩ đại nhất nhà Lý, bên cạnh Lê Phụng Hiểu.
Trong lịch sử Việt Nam, ông nổi bật với các chiến công lừng
lẫy chinh phạt Chiêm Thành (1069), đánh phá 3 châu Khâm, Ung, Liêm nước Tống
(1075–1076), rồi đánh bại cuộc xâm lược Đại Việt của quân Tống do Quách Quỳ,
Triệu Tiết chỉ huy.
Tượng Lý Thường Kiệt trong Đại Nam Quốc Tự.
Đặc biệt, trận chiến ở ba châu Khâm, Ung, Liêm đã khiến tên
tuổi của ông vang dội ra khỏi Đại Việt và khiến nhà Tống khiếp sợ.
Năm 2013, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết định tôn
vinh Lý Thường Kiệt là một trong 14 vị anh hùng dân tộc tiêu biểu nhất trong lịch
sử Việt Nam.
Thân thế Thái úy Lý Thường Kiệt
Ông vốn là người phường Thái Hòa (太和坊) của thành
Thăng Long, theo Hoàng Xuân Hãn thì Thái Hòa cũng là tên một núi nhỏ ở phía Tây
trong thành Thăng Long, bây giờ, ở phía nam đê Bách Thảo, gần chỗ rẽ xuống trường
đua ngựa. Họ gốc của Lý Thường Kiệt vốn không phải họ Lý, vì ông được ban quốc
tính[4] mới được mang họ Lý. Họ gốc của ông, hiện có hai thuyết lớn gây tranh
cãi:
Họ Ngô: thuyết này dựa theo "Phả hệ họ Ngô Việt
Nam" cùng "Thần phổ Lý Thường Kiệt" do Nhữ Bá Sĩ soạn vào thời
nhà Nguyễn. Theo cứ liệu này, nguyên danh của ông là Ngô Tuấn (吳俊), biểu
tự Thường Kiệt (常傑), sau được ban quốc tính nên có tên là Lý Thường
Kiệt.
Ông là con của Sùng Tiết tướng quân Ngô An Ngữ, cháu của Sứ
quân Ngô Xương Xí và chắt của Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập – con trai trưởng
của Ngô Quyền. Thuyết này được nhìn nhận phổ biến nhất, tuy nhiên lại bị xem là
"thuyết mới", vì thời gian của cứ liệu đều còn non, một cuốn phả hệ
không rõ nguồn gốc và một thần phổ soạn vào thời Nguyễn.
Họ Quách: thuyết này dựa theo bia "An Hoạch Báo Ân tự
bi ký" (lập năm 1100) và bia "Cồ Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi
minh tính tự" (lập năm 1159), đây đều là hai bia gốc thời nhà Lý và bản dịch
hiện có trong cuốn "Văn bia thời Lý-Trần" của Lâm Giang, Phạm Văn Thắm
và Phạm Thị Hoa.
Theo thông tin của cả hai bia, thì Lý Thường Kiệt vốn họ
Quách, tên Tuấn, biểu tự Thường Kiệt rất tương tự với thông tin của thuyết họ
Ngô. Theo thông tin của bia, quê ông là làng An Xá, huyện Quảng Đức (Cơ Xá, huyện
Gia Lâm ngày nay), và có lẽ sau này mới cải tịch thành phường Thái Hòa như Toàn
thư ghi nhận.
Cha ông làm Thái úy đời Lý Thái Tông, có hai tên khác nhau,
theo Đại Việt sử lược chép là Thái úy Quách Thịnh Ích (郭盛謚), còn An
Nam chí lược thì chép là Thái úy Quách Thịnh Dật (郭盛溢)[8], quê ở
huyện Câu Lậu, Tế Giang (nay thuộc huyện Mỹ Văn, Hưng Yên). Sau được Hoàng đế
ban quốc tính, vì vậy Quách Tuấn mới có tên là Lý Thường Kiệt. Theo văn bia của
Thái úy Đỗ Anh Vũ, thì cha của Anh Vũ gọi Lý Thường Kiệt là cậu ruột.
Sử sách Trung Quốc thường chép Thường Kiệt là Lý Thường Cát
hoặc Lý Thượng Cát. Trong gia đình, ông có một người em tên Lý Thường Hiến (李常憲).
Có lẽ cũng như anh, "Thường Hiến" là biểu tự chứ không phải tên thực;
thông lệ từ xưa thì biểu tự có ý nghĩa tương đồng hoặc trái nghĩa với tên thực,
được dùng để gọi bên ngoài như một hiểu hiện của sự kính trọng, chỉ có trong
nhà mới gọi tên thực.
Theo nhận xét của sách Đại Việt sử ký toàn thư, nhà ông nối
đời làm quan theo thức thế tập, tức là truyền chức này vĩnh viễn qua các đời,
do đó có thể thấy gia đình của ông là một nhà quan lại có nguồn gốc bền vững. Từ
nhỏ Lý Thường Kiệt đã tỏ ra là người có chí hướng và nghị lực, chăm học tập,
rèn luyện cả văn lẫn võ, nghiên cứu học tập phép dùng binh.
Cũng do hai nguồn khác nhau, nên chức vụ cha của Lý Thường
Kiệt cũng khác nhau. Sách Việt điện u linh tập cùng với nguồn họ Ngô đều ghi
cha của Lý Thường Kiệt tên An Ngữ, và là một "Sùng ban Lang tướng".
Sách An Nam chí lược trong quan chế đời Lý có hai tên Sùng
ban và Lang tướng, nhưng chính sách ấy chép hai tên này rời nhau. Có lẽ
"Sùng ban Lang tướng" là "Lang tướng thuộc Sùng ban", vì
ngay trong sách Chí lược cũng có ghi một chức tên "Vũ nội Lang tướng",
nhưng không rõ hai chức vụ này có địa vị thế nào trong triều đình. Theo nguồn họ
Quách Việt Nam thì Lý Thường Kiệt là con của Quách Thịnh Ích, là quan Thái úy,
do đó vị thế có khác biệt.
Bia Nhữ Bá Sĩ chép về hành trạng thời trẻ có phần huyền thoại
của Lý Thường Kiệt như sau:
“ Khoảng niên hiệu Thiên Thành, đời Lý Thái Tông, cha
đi tuần biên địa, ở Tượng Châu thuộc Thanh Hóa, bị bệnh rồi mất vào năm Tân Mùi
(1031). Thường Kiệt bấy giờ mười ba tuổi, đêm ngày thương khóc không dứt.
Chồng của người cô là Tạ Đức thấy thế, đem lòng thương và dỗ
dành. Nhân đó hỏi ông về chí hướng, ôn g trả lời: "Về văn học, biết chữ để
ký tên là đủ. Về võ học, muốn theo Vệ Thanh, Hoắc Khứ, lo đi xa vạn dặm để lập
công, lấy được ấn phong hầu, để làm vẻ vang cho cha mẹ. Đó là sở nguyện".
Tạ Đức khen là có chí khí, bèn gả cháu gái tên là Tạ Thuần Khanh cho ông, và dạy
cho học các sách binh thư họ Tôn, họ Ngô.
Thường Kiệt đêm ngày học tập. Đêm đọc sách, ngày tập bắn
cung, cưỡi ngựa, lập doanh, bày trận. Các phép binh thư đều thông hiểu cả. Tạ Đức
lại khuyên đọc sách nho. Thường Kiệt rất chịu gắng công học tập, nên chóng
thành tài.
Năm ông 18 tuổi (1036), mẹ mất. Hai anh em lo đủ mọi lễ tống
táng. Trong khi cúng tế, hễ có việc gì, cũng tự tay mình làm. Lúc hết tang, nhờ
phụ ấm, Thường Kiệt được bổ chức "Kỵ mã hiệu úy", tức là một sĩ quan
nhỏ trong đội kỵ binh.”
— Trích từ bia Nhữ Bá Sĩ, bản dịch từ sách "Lý
Thường Kiệt" của Hoàng Xuân Hãn
Học giả Hoàng Xuân Hãn khi trích lại nội dung từ bia Nhữ Bá
Sĩ, cũng có nhận xét:"Đoạn trên này, chép theo bia NBS (chú: Nhữ Bá Sĩ),
là một bia mới dựng đời Tự Đức. Chắc rằng Nhữ Bá Sĩ chép theo thần phổ. Thần phổ
phần nhiều là lời chép tục truyền hay lời bịa đặt, ta không thể hoàn toàn tin
những chi tiết quá rõ ràng chép trong thần phổ. Nhưng sự giáo dục Thường Kiệt kể
trên đây là hợp với những điều ta còn biết về đời nhà Lý".
Sự nghiệp lừng lẫy
Giai đoạn triều vua Lý Thái Tông và Lý Thánh Tông
Năm 1041, Thường Kiệt còn ít tuổi, vì vẻ mặt tươi đẹp được
sung làm Hoàng môn Chi hậu (黄门祗候), theo hầu Lý Thái Tông. Trong 12
năm làm nội thị trong triều, danh tiếng của Thường Kiệt ngày càng nổi. Năm
1053, ông được thăng dần đến chức Nội thị sảnh Đô tri (内侍省都知), khi
năm 35 tuổi.
Năm 1054, Thái tử Lý Nhật Tôn kế vị, sử gọi là Lý Thánh
Tông. Dưới triều Thánh Tông, Thường Kiệt lên chức Bổng hành quân Hiệu úy, một
chức quan võ cao cấp. Ông thường ngày ở cạnh vua để nghe chầu và can gián khi cần.
Vì có công lao, ông được thăng làm Kiểm hiệu Thái bảo.
Năm 1061, người Man ở biên giới Tây Nam quấy rối. Sách Việt
điện u linh, chuyện về Lý Thường Kiệt có chép như sau:"Gặp lúc trong nước,
ở cõi Tây Nam, dân nổi lên chống các thuộc lại, dân Man Lào lại hay tới quấy rối.
Vua thấy ông siêng năng, cẩn thận, khoan hồng bèn sai ông làm Kinh phỏng sứ vào
thanh tra vùng Thanh Hóa, Nghệ An, vào trao quyền tiện nghi hành sự. Ông phủ dụ
dân khôn khéo, nên tất cả năm châu, sáu huyện, ba nguồn, hai mươi bốn động đều
quy phục và được yên ổn".
Về sự kiện bạo loạn này, trong sách Đại Việt sử ký toàn thư
không thấy chép. Duy chỉ sách Việt sử lược có biên rằng: "Năm 1061, Ngũ
Huyện Giang ở Ái Châu nổi loạn". Ngũ Huyện Giang là tên một vùng thuộc phủ
Thanh Hóa. Đời Tiền Lê và đời Lý thường dùng tên sông mà gọi đất có sông ấy, ví
dụ Bắc Giang Lộ, Đà Giang Lộ. Theo hai bia đời Lý, là bia chùa Hương Nghiêm và
mộ chí Lưu Khánh Đàm, Ngũ Huyện Giang chắc ở Thanh Hóa, là sông Mã ngày nay. Bấy
giờ, Lý Thường Kiệt đã 43 tuổi và đây là lần đầu tiên ông thể hiện khả năng thao
lược.
Tháng 2 năm 1069, ông theo vua Thánh Tông đánh Chiêm Thành.
Danh tướng Lý Thường Kiệt lĩnh ấn tiên phong, đánh vào kinh đô, truy bắt được
vua Chiêm là Chế Củ. Cuối cùng, Chế Củ phải chịu hàng, dâng 3 châu để được tha
về nước.
Vì có công lớn trong cuộc chiến với Chiêm Thành, bắt được
vua giặc là Chế Củ, Thường Kiệt được ban quốc tính và từ đó ông chính thức được
mang tên họ là Lý Thường Kiệt. Bên cạnh vinh dự này, ông còn được hưởng tước và
chức đáng kể, được thụ phong làm Phụ quốc Thái phó (輔國太傅), kiêm
các hàm như Dao thụ chư trấn Tiết độ (遙授諸鎮節度), Đồng trung thư môn hạ (同中書門下),
Thượng trụ quốc (上柱國), Thiên tử nghĩa đệ (天子義弟) cùng Phụ
quốc thượng tướng quân (輔國上将軍).
Với danh xưng "Thiên tử nghĩa đệ", Lý Thường Kiệt
đã bán chính thức dự vào hàng quốc thích, và ông còn nhận được tước Khai quốc
công (開國公).
Phụ chính Lý Nhân Tông
Năm 1072 Lý Thánh Tông qua đời, Thái tử Càn Đức mới 7 tuổi
lên ngôi, sử gọi là Lý Nhân Tông. Thái sư đầu triều là Lý Đạo Thành tôn Hoàng hậu
Dương thị làm Hoàng thái hậu, buông rèm cùng nghe chính sự. Thân mẫu của vua Lý
Nhân Tông là Thái phi Ỷ Lan không được dự vào việc triều đình, bèn dựa vào Lý
Thường Kiệt để nắm lấy quyền nhiếp chính. Lý Thường Kiệt khi đó làm Đô úy, chức
vụ ở dưới Lý Đạo Thành.
Tháng 6 năm 1072, tức là 4 tháng sau khi Nhân Tông lên ngôi,
Nhân Tông ra chỉ phế truất Thượng Dương Thái hậu, giam Thái hậu cùng 72 thị nữ
trong lãnh cung và bắt chôn theo Thánh Tông.
Sau đó, Lý Đạo Thành bị giáng chức làm "Tả Gián nghị đại
phu" và bị biếm truất ra trấn thủ Nghệ An. Hoàng thái phi Ỷ Lan, sau cái
chết của Dương Thái hậu thì chính thức được tôn làm Hoàng thái hậu. Theo ý kiến
của Hoàng Xuân Hãn, việc xử chết Dương Thái hậu và giáng chức Đạo Thành, một
mình Ỷ Lan không thể thực hiện mà có vai trò của Lý Thường Kiệt, nắm binh quyền
trong tay, trong khi Lý Đạo Thành vốn là quan văn và tuổi tác đã cao. Từ đó Lý
Thường Kiệt giữ vai trò phụ chính trong triều đình Đại Việt.
Chiến tranh với nhà Tống
Tiên phát chế nhân
Năm 1075, Vương An Thạch cầm quyền chính nhà Tống, tâu với
vua Tống là Đại Việt bị Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn
người, có thể dùng kế chiếm lấy được. Vua Tống sai Thẩm Khởi và Lưu Di làm tri
Quế Châu ngầm dấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập thủy chiến, cấm các
châu huyện không được mua bán với Đại Việt.
Thái hậu Ỷ Lan biết tin, sai ông và Tôn Đản đem hơn 100.000
quân đi đánh. Quân bộ gồm 60.000 người do các tướng Tôn Đản, Thân Cảnh Phúc,
Lưu Kỷ, Hoàng Kim Mãn, Vi Thủ An chỉ huy, tổng chỉ huy là Tôn Đản. Bộ binh tập
trung ngay ở các châu Quảng Nguyên, Môn (Đông Khê), Quang Lang, Tô Mậu rồi tràn
sang đánh các trại Vĩnh Bình, Thái Bình, Hoành Sơn, châu Tây Bình, Lộc Châu.
Một cánh quân khác đóng gần biên giới Khâm châu cũng kéo tới
đánh các trại Như Hồng, Như Tích và Đề Trạo, "quân ta tới đâu như vào nhà
trống không người".
Lý Thường Kiệt chỉ huy 40.000 quân thủy cùng voi chiến đi đường
biển từ châu Vĩnh An (Quảng Ninh) đổ bộ lên đánh các châu Khâm, Liêm; Tông Đản
vây châu Ung. Ngày 30 tháng 12 năm 1075, quân Đại Việt tiến chiếm thành Khâm
Châu, bắt toàn bộ quan quân nhà Tống mà không phải giao chiến một trận nào. Ba
ngày sau, 2 tháng 1 năm 1076, Liêm Châu cũng thất thủ.
Khi được tin hai châu Khâm, Liêm đã mất, nhà Tống rất hoang
mang, hoảng hốt, các tướng ở địa phương bối rối. Ty Kinh lược Quảng Nam tây lộ
vội vã xin viện binh: 20.000 quân, 3.000 con ngựa, xin thêm khí giới, đồ dùng
và một tháng lương, và xin được điều động các dân khê động, tất cả lấy dọc đường
từ Kinh châu đến Quảng Tây. Để điều khiển quân được mau chóng, ty ấy cũng xin dời
đến thành Tượng, gần phía bắc Ung Châu.
Triều đình Tống đối phó rất lúng túng. Vua Tống cách chức
Lưu Di và sai Thạch Giám thay coi Quế Châu và làm Kinh lược sứ Quảng Tây.
Quân Đại Việt hoàn toàn làm chủ chiến trường. Lý Thường Kiệt
cho đạo quân ở Khâm và Liêm Châu tiến lên phía Bắc. Đạo đổ bộ ở Khâm Châu kéo
thẳng lên Ung Châu. Đường thẳng dài chừng 120 cây số, nhưng phải qua dãy núi Thập
Vạn. Còn đạo đổ bộ ở Liêm Châu tiến sang phía đông bắc, chiếm lấy Bạch Châu, chặn
quân tiếp viện của Tống từ phía đông tới. Hẹn ngày 18 tháng 1 năm 1076, hai đạo
quân sẽ cùng hội lại vây chặt lấy Ung Châu.
Ung Châu là một thành lũy kiên cố, do tướng Tô Giám cùng với
2.800 quân cương quyết cố thủ.
Đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu.
Lý Thường Kiệt đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay thuộc thành phố Nam Ninh, khu tự
trị Quảng Tây) phá tan viện quân, chém Trương Thủ Tiết tại trận.
Tri châu Ung là Tô Giám cố thủ không hàng. Quân Đại Việt
đánh đến hơn 40 ngày. Sau cùng quân Việt dùng hỏa công, bắn tên lửa tẩm nhựa
thông vào thành, trong thành thiếu nước, không thể chữa được cháy. Tinh thần
quân Tống và dân trong thành suy sụp
Cuối cùng quân Đại Việt bắt dân Tống chồng bao đất cao đến
hàng trượng để họ trèo lên thành. Ngày thứ 42, thành bị hạ, tướng chỉ huy Tô
Giám tự thiêu để khỏi bị quân Đại Việt bắt làm tù binh.
Thường dân trong thành không chịu hàng nên bị quân nhà Lý giết
hết hơn 58.000 người, cộng với số người chết ở các châu Khâm, Liêm thì đến hơn
100.000, tuy nhiên quân Đại Việt cũng tổn thất đến 10.000 người và nhiều voi
chiến.
Lý Thường Kiệt chiếm xong thành Ung, lại lấy đá lấp sông
ngăn cứu viện rồi đem quân lên phía Bắc lấy Tân Châu. Viên quan coi Tân Châu
nghe thấy quân Đại Việt kéo gần đến thành liền bỏ thành chạy trốn. Mục tiêu
hoàn thành, Lý Thường Kiệt rút quân về.
Lý Thường Kiệt bắt sống người ba châu ấy đem về nước. Nhà Lý
cho những người phương bắc đó vào khai phá vùng Hoan - Ái (Thanh - Nghệ).
Phòng thủ sông Như Nguyệt
Do tiền đồn ở Ung Châu là căn cứ tập trung quân để nam tiến
bị phá tan, nhà Tống phải điều động thêm nhân lực và lương thảo để thực hiện
chiến tranh với Đại Việt.
Tháng 3 năm 1076, nhà Tống sai Tuyên phủ sứ Quảng Nam là
Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem đại binh với 9 đại tướng,
hẹn với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn Đại Việt, nhưng quân Chiêm Thành
và Chân Lạp không dám tiến vào Đại Việt.
Quân Tống viễn chinh lên đến 10 vạn quân, một vạn ngựa và
hai mươi vạn dân phu, khí thế rất mạnh mẽ, nhất là kỵ binh Tống, nhưng quân Tống
muốn phát huy chiến mã thì phải vượt qua khỏi vùng hiểm trở, tới đồng bằng thì các
đạo kỵ binh mới tung hoành được.
Tuyến phòng thủ của quân Đại Việt, Lý Thường Kiệt dựa vào
sông núi, các đèo hiểm trở, sông rộng và sâu. Từ trại Vĩnh Bình vào châu Lạng,
phải qua dãy núi cao rừng rậm, có đèo Quyết Lý, trên đường từ tỉnh Lạng Sơn đến
Đông Mô ngày nay, khoảng làng Nhân Lý, phía bắc châu Ôn. Rồi lại phải qua dãy núi lèn, đá đứng như tường,
ở giữa có đường đi rất hiểm: đó là ải Giáp Khẩu, tức là ải Chi Lăng, ở phía bắc
huyện Hữu Lũng thuộc Lạng Sơn ngày nay. Về đường thủy, để chặn địch qua sông,
quân Nam chỉ cần đóng thuyền ở bến Lục Đầu thì có thể triển khai quân đến các
khu vực hiểm yếu nhanh chóng.
Các tướng lĩnh thuộc Man Động như: Nùng Quang Lãm, Nùng Thịnh
Đức coi ải Hà Nội, Hoàng Kim Mãn và Sầm Khánh Tân giữ châu Môn, Vi Thủ An giữ
châu Tô Mậu, Lưu Kỷ coi Quảng Nguyên khi quân Tống sang đã đầu hàng. Duy có phò
mã Thân Cảnh Phúc giữ châu Quang Lang (Lạng Sơn) không đầu hàng, rút quân binh
vào rừng đánh du kích, giết rất nhiều quân Tống.
Những tướng lĩnh đầu hàng trước kéo quân qua đất Tống, đánh
rất giỏi. Nhưng sau quân Tống tràn sang đánh báo thù, lúc đầu họ cự chiến, sau
vì thất trận và vì bị dụ dỗ, nên đầu hàng, thậm chí như Hoàng Kim Mãn còn chỉ
đường bày mưu cho Tống. Sách Quế Hải Chí kể: "Viên tri châu Quang Lang là
phò mã, bị thua, bèn trốn vào trong rừng Động Giáp, rồi đánh vào hậu phương
quân Tống. Rình lúc bất ngờ đánh úp quân địch làm chúng rất sợ hãi".
Quân Tống tràn xuống, theo đường tắt qua dãy núi Đâu Đỉnh, tới
phía tây bờ sông Phú Lương; trong khi đó, một cánh quân tách ra, vòng sang phía
đông đánh bọc hậu quân Nam ở Giáp Khẩu (Chi Lăng) và thẳng tới sông Cầu.
Hoàng đế Lý Nhân Tông sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh,
lập chiến lũy sông Như Nguyệt để chặn quân Tống. Sông Cầu từ địa phận Cao Bằng
chảy đến Lục Đầu, hợp với sông Bạch Đằng.
Từ Lục Đầu ra đến biển, là một cái hào tự nhiên sâu và rộng,
che chở cho đồng bằng nước Việt để chống lại tất cả mọi cuộc xâm lăng đường bộ
từ Lưỡng Quảng kéo vào. Đối với đường sá từ châu Ung tới Thăng Long, thì không
cần chiến tuyến sông Bạch Đằng, vì đã có sông Lục Đầu là chướng ngại tự nhiên
ngăn trước rồi.
Trong cuộc chiến chống quân xâm lược nhà Tống, chiến tuyến
sông Cầu đóng vai trò quan trọng chiến lược. Thượng lưu sông Cầu qua vùng rừng
núi rất hiểm. Chỉ có khoảng từ Thái Nguyên trở xuống là có thể qua dễ dàng, và
có đường xuôi. Nhưng sau sông, phía tây có dãy núi Tam Đảo là một thành trì
không thể vượt.
Như vậy, chỉ có khoảng từ huyện Đa Phúc đến Lục Đầu cần có
tuyến phòng ngự bờ nam. Đặc biệt, chỉ có khúc giữa, từ đò Như Nguyệt đến chân
núi Nham Biền là có bến, có đường qua sông để tiến xuống miền nam dễ dàng, thẳng
và gần.
Lý Thường Kiệt đem chủ lực chặn con đường từ trại Vĩnh Bình
đến sông Nam Định (sông Cầu), triển khai trận doanh và phục binh ở hai ải tiếp
nhau: ải Quyết Lý ở phía bắc và ải Giáp Khẩu (Chi Lăng) ở phía nam châu Quang
Lang. Khi hai phòng tuyến này bị chọc thủng, quân Đại Việt sẽ cố thủ ở phòng
tuyến thứ ba, tức là nam ngạn sông Nam Định.
Để ngăn chặn quân Tống qua sông, Lý Thường Kiệt sai đắp đê
nam ngạc cao như bức thành. Trên thành, đóng tre làm giậu, dày đến mấy từng.
Thành đất lũy tre, nối với dãy núi Tam Đảo, đã đổi thế sông Nam Định và bờ nam
ngạn thành dãy thành hào phòng ngự vững chắc, che chở cả vùng đồng bằng Giao Chỉ.
Tuyến thành hàodài gần trăm cây số, khó vượt qua nhưng lại dễ phòng thủ hơn một
thành lẻ như thành Thăng Long.
Cùng lúc đó, thủy binh Tống do Hòa Mân và Dương Tùng Tiểu chỉ
huy đã bị thủy quân Đại Việt do Lý Kế Nguyên điều động, chặn đánh ngoài khơi lối
vào Vĩnh An. Quân Tống có kỵ binh mở đường tiến công quyết liệt, có lúc đã chọc
thủng chiến tuyến quân Đại Việt tràn qua sông Như Nguyệt, nhưng quân Nam đều kịp
thời phản kích, đẩy lùi quân Tống.
Lý Thường Kiệt còn dùng chiến tranh tâm lý để khích lệ tinh
thần quân Nam chiến đấu, cho quân đọc bài thơ Thần. "Đang đêm, nghe tiếng
vang trong đền đọc bài thơ ấy, quân ta đều phấn khởi. Quân Tống sợ kinh hổn
táng đảm, không đánh đã tan".
Quân Tống tiến không được, thoái không xong, hao mòn vì chiến
sự và khí hậu, không được thủy quân tiếp viện. Quân Đại Việt lại liên tục tập
kích, doanh trại của Phó tướng Triệu Tiết bị phá, dù hai tướng Đại Việt là
hoàng tử Hoàng Chân và Chiêu Văn hy sinh. Quân Tống 10 phần chết đến 6, 7 phần.
Lý Thường Kiệt biết tình thế quân Tống đã lâm vào thế “đánh
không được, rút không xong,” đồng thời Đại Việt trong cuộc chiến kéo dãi cũng
nhiều tổn thất, nên sai sứ sang xin "nghị hòa" để quân Tống rút về.
Quách Quỳ vội chấp nhận giảng hòa và rút quân. Sách Việt Sử
kỷ yếu của Trần Xuân Sinh dẫn cổ sử nói về nội tình của nhà Tống về sự kiện
này: Triều thần nhà Tống cho rằng "Cũng may mà lúc đó địch lại xin giảng
hòa, không thì chưa biết làm thế nào".
Hoàng Xuân Hãn, tác giả sách Lý Thường Kiệt đã bình phẩm:
"Giả như các mặt trận đầu có quân trung châu, thì thế thủ xếp theo trận đồ
của Lý Thường Kiệt đã dàn ra, có lẽ đánh bại Tống từ đầu."
Chiến tranh với Chiêm Thành
Dưới thời Lý Thánh Tông, Lý Thường Kiệt tham gia cuộc tấn
công Chiêm Thành năm 1069. Ông cầm quân truy đuổi và bắt được vua Chiêm là Chế
Củ (Rudravarman 4).
Dưới thời Lý Nhân Tông, ngoài việc cầm quân đánh Tống, ông
còn tiến công Chiêm Thành vào năm 1075 nhưng không thu được thắng lợi.
Những năm cuối đời, ông còn cầm quân đi đánh Lý Giác ở Diễn
Châu (1103). Năm 1104, vua Chiêm Thành là Chế Ma Na (Jaya Indravarman 2,
1086-1113) đem quân đánh và lấy lại 3 châu Địa Lý v.v... mà vua Chế Củ đã cắt
cho Đại Việt. Lúc đó, Thái úy Lý Thường Kiệt một lần nữa kéo quân đi đánh, phá
tan quân Chiêm, Chế Ma Na phải nộp lại đất ấy cho Đại Việt.
Non sông sạch bóng quân thù. Lúc này vua mới 12 tuổi, Lý Thường
Kiệt lại tiếp tục gánh trách nhiệm lớn của triều đình trong công cuộc xây dựng
đất nước, chăm lo đời sống nhân dân. Ông đã cho tu bổ đê điều, đường sá, đình
chùa hư hỏng trong chiến tranh và tiến hành nhiều biện pháp nhằm cải tổ bộ máy
hành chính trong toàn quốc.
Năm 1082, ông thôi chức Thái úy và được cử về trị nhậm trấn
Thanh Hóa. Làm việc ở đây suốt 19 năm trời, đến năm 1101 thì vua Lý Nhân Tông lại
mời ông trở lại về triều giữ lại chức Nội thị phán thủ đô áp nha hành điện nội
ngoại đô tri sự. Lúc này ông đã 82 tuổi.
Tuổi cao, nhưng ông vẫn tình nguyện dẫn binh đi đánh giặc Lý
Giác ở Diễn Châu (năm 1103), dẹp giặc Chiêm Thành quấy nhiễu ở Bố Chính (năm
1104). Ông còn tổ chức lại quân đội, duyệt đổi lại các đơn vị từ cấm binh đến
dân quân.
Tháng 6 năm Ất Dậu (1105), Thái úy Lý Thường Kiệt mất, thọ
86 tuổi. Lý Nhân Tông truy phong ông làm Nhập nội điện đô tri Kiểm hiệu Thái úy
bình chương Quân quốc trọng sự (入内殿都知檢校太尉平章軍國重事), tước Việt quốc
công (越國公), thực ấp 10.000 hộ và cho người em là Lý Thường
Hiến được kế phong tước Hầu.
Trong Bài bia ký chùa Báo Ân núi An Hoạch, Chu Văn Thường –
một quan chức ở quận Cửu Chân, trấn Thanh Hóa đời Lý Nhân Tông ca ngợi Lý Thường
Kiệt:
“ Nay có Thái úy Lý công, giúp vua thứ tư triều Lý... Ông đứng
trước tiết lớn, vâng mệnh phù nguy, là người có thể gửi gắm đứa con côi, ủy
thác mệnh lệnh ngoài trăm dặm. Rồi đó ông thề trước ba quân: phía Bắc đánh quân
Tống xâm lược, phía Tây đánh bọn không lại chầu, giỏi thắng địch bằng sách lược
bảy lần bắt bảy lần đều thả. Đâu phải riêng nhà Hán có công huân Hàn, Bành, nước
Tề có sự nghiệp Quản, Án. Riêng ông giúp vua thì nước nhà giàu thịnh nhiều năm.
Đó chính là công tích rực rỡ của đạo làm tôi có thể để lại nghìn đời sau vậy. ”
— Chu Văn Thường
Bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn cũng ca ngợi ông:
“ Làm việc thì
siêng năng, điều khiển dân thì đôn hậu, cho nên dân được nhờ cậy. Khoan hòa
giúp đỡ trăm họ, nhân từ yêu mến mọi người, cho nên nhân dân kính trọng. Dùng
uy vũ để trừ gian ác, đem minh chứng để giải quyết ngục tụng, cho nên hình ngục
không quá lạm. Thái úy biết rằng dân lấy sự no ấm làm đầu, nước lấy nghề nông
làm gốc, cho nên không để nỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe khoang. Nuôi dưỡng
đến cả những người già ở nơi thôn dã, cho nên người già nhờ thế mà được yên
thân. Phép tắc như vậy có thể là cái gốc trị nước, cái thuật yên dân, sự tốt đẹp
đều ở đấy cả. ”
Bia chùa Linh Xứng
Sử thần nhà Lê Trung hưng Ngô Thì Sĩ, trong sách Việt sử
tiêu án, đã đề cao Lý Thường Kiệt qua việc so sánh chiến công đánh Tống của ông
với các chiến thắng của Ngô Quyền, Lê Đại Hành và Trần Hưng Đạo:
“ Nước ta đánh nhau với quân nước Trung Hoa nhiều lần, từ
vua Nam Đế trở về trước, việc đã lâu rồi, sau này vua Ngô Tiên Chúa đánh Bạch Đằng,
vua Lê Đại Hành đánh trận Lạng Sơn, vua Trần Nhân Tôn đánh đuổi được Toa Đô,
Thoát Hoan, những trận được vẻ vang đó là câu chuyện hãnh diện của nước ta,
nhưng đều là giặc đến đất nước, bất đắc dĩ mà phải ứng chiến. Còn đến đường đường
chính chính đem quân vào nước người, khi đánh không ai địch nổi, khi kéo quân về
không ai dám đuổi theo, như trận đánh Ung Liêm này thật là đệ nhất võ công, từ
đấy người nước Tầu không dám coi thường chúng ta, đến những đồ cống, hình thức
thơ từ, không dám hà trách, chỉ sợ lại sinh ra hiềm khích. Đến thơ từ của nước
ta đưa cho Trung Hoa chỉ dùng có hai tấm ván sơn đen, liệt tên vài vị đại thần
dùng ấn tín Trung thư môn hạ mà đóng vào, thế thì triều Lý được trịch với Tống
nhiều lắm. ”
Việt sử tiêu án
Sử gia đời Nguyễn Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến
chương loại chí, quyển IX, có nhận xét về vị trí của Lý Thường Kiệt so với các
nhà chính trị, quân sự khác của Đại Việt thời Lý:
“ Danh tướng triều Lý chỉ có Lê Phụng Hiểu, Lý Thường Kiệt
là hơn cả. Công dẹp nạn, mở mang bờ cõi của hai người rõ rệt đáng ghi, không hổ
là bậc tướng có tiếng và tài giỏi. Còn như Đào Cam Mộc giúp vua lên ngôi, Tông
Đản đánh giặc, dẫu có công lao một thời, nhưng mưu lược không rõ rệt; công việc
trong lúc làm quan không thấy gì cho nên không chép. ”
— Phan Huy Chú[
Đào Cam Mộc và Tôn Đản không muốn tham dự triều chính, mỗi lần
đánh giặc xong thì về ở trang trại vui thú điền viên, nên không nổi danh về đường
quan trường.
Nguồn: Vikipedia