Thần tích về nhà Tiền Lý, Vua Lý Nam đế và Hoàng hậu Đỗ Thị Khương Nương

Bản Thần tích về nhà Tiền Lý, Vua Lý Nam đế và Hoàng hậu Đỗ Thị Khương Nương thôn Tây Để, nay là thôn Hữu Lộc xã Xuân Hòa huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình ở Đền Hậu Lộc.

TỈNH THÁI BÌNH HUYỆN THƯ TRÌ TỔNG CỰ LÂM,

THẦN TÍCH XÃ HỮU LỘC

I. PHIÊN ÂM:

Thái Bình tỉnh, Thư Trì huyện, Cự Lâm tổng, Hữu Lộc xã Thần tích.

Hữu Lộc xã Thần tích.

Tiền Lý Nam đế Hoàng đế cập Linh Nhân Hoàng Thái hậu ngọc phả lục.

Càn chi đệ nhất bộ thượng đẳng.

Quốc triều Lễ bộ chính bản.

Tích ngã Việt Hùng gia sáng nghiệp, thánh tổ ưng đồ nhất thập bát thế chi tương truyền dư nhị thiên niên chi thịnh trị. Phụ truyền tử kế giai hiệu xưng Hùng; ngọc, bạch, xa, thư, sơn hà nhất thống, thị vi Bách Việt chi tổ yên. Truyền chí truyền vương vô nhân kế tự, nãi nhượng quốc vu Thục An Dương vương.

Dương vương hữu quốc tài ngũ thập niên Triệu Đà thủ chi, nội thuộc ư Hán.

Lịch, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương chí Lương khiển Tiêu Tư vi ngã Việt thái thú. Tư vi nhân tham tàn, bạo lược, ngược chính tàn dân ngã Việt, nguyên nguyên đồ thán vô sở y viên hạnh nhi nhân tâm yếm loạn, thiên ý khởi bình. Thử gian, nãi hữu Long Hưng, Thái Bình nhân, tính Lý danh Bí, kỳ tiên tổ bản Bắc quốc nhân. Tây Hán mạt khổ ư chinh dịch, tị cư Nam thổ, toại vi nhân chí công phàm thất đại hỹ.

Án tích công phụ danh Lý Công Chước, mẫu Trương Thị Hằng. Kỳ mẫu mộng kiến kỵ long thăng thiên bão đắc Thái Dương tinh quân nhi hạ bột nhiên tỉnh giác, nãi tri phùng từ nhất mộng nhĩ. Ư thị hữu dựng nhi sinh công Nhâm thân niên Thu thiên thất nguyệt thập nhị nhật. Đương sinh chi gian, xích quang mãn thất thụy khí tề phi, thời nhân giai hô hinh hài nhi yên. Công sinh nhi minh mẫn bất học nhi tự tri. Phàm thượng tự Thiên văn hạ chí Địa lý vô bất tinh quán. Niên thập lục, phụ mẫu kế một. Niên thập cửu sĩ Lương vi Thái bộc xạ cập Lương tao loạn. Công phản hồi Thái Bình chiêu vong nạp bạn đại khởi nghĩa binh, kiến ngã Việt hữu hà sở địa ấp phong nhiêu, dân cư hiểm cố. Công giai thiết lập đồn doanh dĩ vi đề phòng chi sở. Nhất nhật công tiến binh vãng quá Sơn Nam đạo, Kiến Xương phủ, Thư Trì huyện, An Để trang, tây Để khu. Công kiến kỳ địa thế thủy nhiễu oanh vu, long hành khuất khúc, bàng hữu tiểu khê nhất đái hồi cố, thủy sơn hữu tình. Thả nhân dân cấp túc, phong tục thuần bàng, kỳ khả lập đồn doanh chi địa. Công nãi ngâm nhất luật vân:

Thành thị lâu đài giai bảo ngọc,

Giang sơn hoa thảo tổng đan thanh.

Dư khí chung thành tuy tiểu mạch,

Điện cư chân khả kiến cung thành.

Tức nhật công truyền binh sĩ dữ nhân dân thiết lập nhất đồn vu dân bàng tiểu khê chi ngạn, tọa Quý hướng Đinh, phân kim kiêm Bính Tý Bính Ngọ. Tu lý sự ngật, tự thử công Đông chinh Tây thảo, thường thường vãng lai trú binh vu thử.

Khước thuyết:

Thời Tây Để khu hữu Đỗ gia chi nữ, danh viết: Khương Nương. Án tích Khương Nương phụ Đỗ Công Cẩn, mẫu Bùi Thị Hoan, bản Tây Để khu nhân, gia thế dĩ y vi nghiệp, Đỗ Công niên ngoại ngũ tuần vị tằng sinh dục, phu thế nãi hành lễ kỳ đảo vu Phật Sơn tự, mộng kiến nhất nhân tứ phương kính nhất diện, cập phản hồi cảm nhi hữu dựng. Chí kỳ mãn nguyệt thời Đinh Sửu niên Đông thiên thập nhất nguyệt sơ thập nhật, sinh hạ nhất nữ hồng thần phấn kiểm, phượng nhãn nga my. Phu mẫu đại hỷ nãi mệnh danh viết: Khương Nương. Niên phương nhị bát nhan sắc tuyệt trần, tuy Bồng Doanh chi tiên lữ, lãng uyển chi hoa kiều, diệc vô dĩ quá. Thả nương thiếu thường tòng học Tử Sử tinh thông, thời nhân giai xưng vi nữ trung nhi kỳ nam dã. Nhiên nhi thiềm cung phương tỏa, ngọc diệp chính phong túc khiết lương duyên giai kỳ vị định. Thử gian Lý công văn Nương tài sắc câu ưu nãi từ dữ Đỗ Công thỉnh dĩ Khương Nương kết bách niên chi ước. Đỗ công đại hỷ thính nạp, ư thị trạch nhật tinh kỳ lễ định kháng lệ duyên hài. Tự thử công nãi lập nãi vi đệ nhất cung phi, hứa nương lưu cư vu Tây Để khu dĩ phụng dưỡng ngoại đường. Sự ngật đại tể ngưu lao khao hưởng quân sĩ. Công trạch thủ Tây Để khu đinh phu tráng hạng tam thập lục nhân vi gia thần thủ túc. Tức nhật cử binh trực tiến thuyền đầu chinh cổ thiên lý, oanh lôi điện chi thanh, lộ thượng tinh kỳ lưỡng ngạn nhiễu long xà chi ảnh. Trực để Tiêu thành đại chiến nhất trận, Tiêu Tư đại bại khí thành nhi tẩu, Lý công bảo thủ kỳ thành vị cơ Lâm Ấp nhập khấu, công mệnh đại tướng Phạm Tu kích đại phá chi. Thiên hạ thái bình, đạo tặc an tức công nãi tức Hoàng đế vị, tự lập vi Tiền Lý Nam đế kiến quốc hiệu Vạn Xuân, đô hiệu Long Biên thành. Thị tuế sách phong Khương Nương vi Hoàng hậu dĩ Tây Để khu vi Hoàng hậu phùng mộc chi dân, chuẩn miễn binh dung tô thuế đẳng hạng. Tự thử Tây Để nhất trang giai đắc mông kỳ phúc chỉ nhất giai quý hiển phong nhiêu yên.

Khước thuyết:

Thời tự Khương Nương nhập triều kinh đắc tứ niên, nhất nhật Đỗ công hốt bị ngoại cảm Đỗ công tầm tốt. Đế nãi hứa Hoàng hậu dữ Đại tướng nhất viên phản hồi Tây Để khu hành lễ an táng. Tự Đỗ công dĩ tốt, phu nhân thương tâm phiên thành trọng tật, phục dược phất thuyên, kỳ thần vong hiệu, phu nhân diệc tầm vong vu chính tẩm. Hoàng hậu nãi hành táng tấu nhập đế đình thỉnh dĩ tại gia cư táng phụ mẫu. Đế hứa chi ban tứ kim ngân cẩm tú dĩ ngẫu ức vạn số. Tự thử Nương cư vu Tây Để khu vụ hành nhân nghĩa, chẩn phạp cứu bần. Phàm nhân dân hữu lão nhược cô quả giả Nương giai

Soát kỳ gia tý cung dưỡng. Nhân dân nhất giai âu ca ân đức hàm đái chi như nhật nguyệt, thân chi như phụ mẫu yên.

Khước thuyết:

Thời Nam đế tại vị kinh dĩ thất niên Lương tái khiển Trần Bá Tiên cử binh Nam xâm dĩ tuyết tiền xỉ. Thử gian Đế đồn binh Triệt Hồ, Lương binh bất cảm cận, kinh dĩ du niên vị phân thắng phụ. Thời Hạ thiên lục nguyệt, giang thủy trướng dật mãn trú hồ trung, Bá Tiên thừa cơ chỉnh sức thuyền sư tùy thủy nhi tiến trực để Triệt Hồ, Đế sư bại tích di quyền ư Đại tướng Triệu Quang Phục, đế tự nhập Khuất Liêu động nhi băng (thời thất nguyệt thập ngũ nhật). Thử gian thiên địa hối minh, kinh tam nhật thiên địa tình quang tắc ư thử xứ dĩ kiến nghị trùng trúc thành nhất đại thổ phụ. Thử gian Khương Nương Hoàng hậu cư vu Tây Để khu hiệu khấp mânthiên thế vô khả nại. Tức truyền nhân dân thiết lập nhất từ vu cung doanh khê ngạn chi xứ, ỷ kỳ phương hướng tả đế thần hiệu viết: Tiền Lý Nam đế Hoàng đế dĩ phụng sự chi, sự ngật Nương nãi ban tứ nhân dân hoàng kim thập hốt, hứa nhân dân quảng mãi điền trì dĩ vi công bản. Đương gian Nương nãi vị nhân dân viết: Ngô dữ nhân dân tất thành cố nghĩa phi thị nhất nhật khởi nhẫn vong tai? Thảng ngô bách tuế chi hậu tắc nhân dân tả ngô thần hiệu dĩ phụng sự dữ tiên đế đồng kỳ phối hưởng. Nhân dân nghi tuân thừa ngô mệnh bất đắc di cải dã. Na thời nhân dân giai bái tạ lĩnh mệnh, sự ngật Nương dữ hoa nô lục nhân đồng nhập Khuất Liêu động, thám tỉnh Tiên đế lăng phần. Đồ hành phương chí động trung hốt kiến thiên địa huyền hoàng, lôi đình chấn đãng, nhất khoảnh chi gian, âm vân tứ tán tắc Nương dĩ bất kiến, duy ư Tiên đế lăng bàng tái hữu thổ đôi nhất phụ (thời nhị nguyệt thập lục nhật) Thử gian thị nữ số nhân tòng Nương chí thử kiến kỳ sự như thử nhất giai đại kinh, nãi phản hồi ngôn dữ nhân dân, tắc nhân dân giai ngôn ư bản nguyệt thập lục nhật. Nhân dân giai vọng kiến hữu nhất đại tinh hình như quyên sất tự Nam phương hoành phi trực chí miếu tiền nhi biến hỹ. Chí thử văn Hoàng hậu dĩ hóa dân giai dĩ vi kinh cụ. Tức nhật nãi hành lễ tả thần hiệu viết: Khương Nương Hoàng hậu dĩ phụng sự dữ Lý Nam đế đồng vi nhất sở.

Khước thuyết:

Tự Nam đế ký băng, Quang Phục tướng binh hồi thủ Nhất Dạ Trạch lập đàn kỳ đảo thiên địa. Hậu tam nhật, kiến nhất lão nhân kỵ hoàng long tòng thiên nhi hạ, thoát long trảo dĩ hứu chi. Quang Phục dĩ vi nỗ cơ hiệu viết: Long qua thần nỗ, phàm hữu hoãn cấp sở hướng vô địch. Nhân thử bình đắc Lương binh, Quang Phục tự lập vi Triệu Việt Vương. Thử gian nãi hữu Tiền Lý Nam đế huynh tử (Tức Đào Lang vương chi tử.) danh Lý Phật Tử dữ tử danh Nhã Lang đại khởi nghĩa binh, chí đồ khôi phục nhiên nhi Triệu hữu long qua thần nỗ. Phàm hữu giao chiến Lý binh đa bại. Nhất nhật Phật Tử dữ chư tướng âm mưu cầu hôn Triệu Việt chi nữ Cảo Nương, thỉnh dữ Nhã Lang kết vi phu phụ, Việt Vương hứa chi, quần thần đa giai bất thính. Ư thị Phật Tử khiển Nhã Lang nhập quân vi chất, tự thử Việt Vương thậm kỳ ái tín. Kinh nhất niên gian nhất nhật Nhã Lang dữ Cảo Nương đối ẩm tức nhân vấn Cảo Nương viết: Tích giả lưỡng quốc tương thù, chiến tranh bất tức. Kim dĩ thành Tần Tấn chi duyên tắc can qua chi dịch diệc khả tức hỹ. Nhiên nãng giả hoàng phụ hữu hà dị thuật chí sử ngô phụ khước đa bại thử. Cảo Nương bất ý dĩ long qua thần nỗ thị chi. Nhã Lang khuy tri kỳ ý, tha nhật hoán dị nỗ cơ thủ đạo long qua tàng chi nhất sở. Sự ngật tấu thỉnh quy ninh vương hứu chi. Nhã Lang trì nhật phi mã bôn hồi cụ tấu kỳ phụ, Phật Tử văn chi cử binh lai công Việt Vương, Việt Vương thần cơ dĩ thất, khí thành nhi tẩu trực bôn hồi Đại Nha hải khẩu nhi tử nhi chúng tất bình. Phật Tử tức vị tự lập vi Hậu Lý Nam đế nãi luận công hành thưởng đẳng cấp hữu sai. Ư thị tặng phong bách thần sắc chỉ mỹ tự, nãi tôn phong Tiền Lý Nam đế sắc chỉ Thượng đẳng Tôn thần; Tái tôn phong Khương Nương vi Linh Nhân Hoàng Thái hậu, truyền sở tại địa phương tiền nhật Nam Đế sở hữu thiết lập đồn doanh chi thử trang khu giả, cấp cấp nghệ kinh thành nghinh sắc hồi dân phụng chi. Thử gian Tây Để khu văn chiếu, phụ lão nghệ kinh thành hành lễ nghênh sắchồi dân, trùng tu miếu điện dĩ phụng sự chi. Tự thử dĩ hậu quốc đảo dân cầu giai nẫm trứ linh ứng. Đãi chí Nam bang lịch hữu Đinh, Lê, Lý, Trần tứ tính khai sáng hồng nghiệp, thường hữu hộ quốc cứu dân. Lịch chí Trần mạt Hồ thị tranh quyền Minh nhân tiếm loạn. Thử gian nãi hữu Ái Châu Thiệu Thiên phủ Lương Giang huyện, Lam Sơn động nhân tính Lê danh Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, tam thiên hổ lữ tiễu trừ Hồ thị, bình định Minh nhân tức đế vị vu Lam Sơn thị vi Lê Thái tổ, niên hiệu Thuận Thiên. Lịch truyền chí Chiêu Tông vi quyền thần Mạc thị tiếm vị. Thử gian hữu Đại thần Nguyễn Thái úy tiến thảo, nhất nhật Thái úy quan tướng binh quá Tây Để khu miếu sở hành lễ chí tế, chúc dĩ âm phù thảo tặc, hộ quốc bình tàn, tỉ hậu thanh bình cộng hưởng đồng hưu chi khánh. Hành lễ tất cử binh tiễu trừ Mạc nghiệt, cập thiên hạ thanh bình, Thái úy dữ Chiêu Tôn hồi chính cung tức Hoàng đế vị. Ư thị thưởng lao tam quân gia phong tướng sĩ đẳng cấp hữu sai, cập truy phong các bách thần hộ quốc, Thái úy quan hành biểu cụ tấu tiền viết: Diệc hữu kỳ đảo vu Tây Để khu miếu sở nhân văn chi nãi gia phong sắc chỉ mệnh Thái úy quan nghinh sắc hồi Tây Để khu hành lễ chí tế. Thái úy phụng mệnh dĩ vi ức niên hương hỏa dữ quốc đồng hưu, diên diên miên miên vĩnh vi hằng thức thịnh tai. Nhất tôn phong Tiền Lý Nam đế Hoàng đế Thượng đẳng Tôn thần.

Nhất phong Lý triều Linh Nhân Hoàng Thái hậu.

Chuẩn hứa Nam Sơn đạo, Kiến Xương phủ, Thư Trì huyện, An Để trang,

Tây Để khu phụng sự.

Nhất phụng khai sinh hóa, khánh hạ các tiết dữ húy tự Bí, Khương nhị tự dữ Thánh phụ Thánh mẫu tường khán tích nội nhất giai tị âm, kỳ chính từ tại Khuất Liêu động.

Nhất thất nguyệt thập nhị nhật Hoàng đế sinh Thần. Lễ dụng ngưu lao ca xướng.

Nhất thất nguyệt thập ngũ nhật Hoàng đế hóa Thần. Lễ dụng hắc trư xôi tửu.

Nhất thập nhất nguyệt sơ thập nhật Hoàng hậu sinh Thần. Lễ dụng thượng

Tế bàn oản quả, hạ dụng hắc trư xôi tửu.

Nhất nhị nguyệt thập lục nhật Hoàng hậu hóa Thần. Lễ dụng y như sinh thần tiền lệ.

Nhất Khánh hạ chính nguyệt sơ nhị nhật, thập nhất nguyệt sơ nhị nhật, hành lễ tùy nghi.

Phàm thiên hạ ư chư trang, khu phụng sự Lý Nam đế cộng bát thập thất sở nhi Tây Để khu vi nhị thập bát yên.

Hồng Phúc nguyên niên mạnh Thu nguyệt cát nhật.

Hàn lâm viện Đông Các Đại học sĩ thần Nguyễn Bính phụng soạn.

Hoàng triều Vĩnh Hựu tứ niên trọng Hạ nguyệt cát nhật.

Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh thần Nguyễn Hiền tái tuân tiền triều chính bản phụng sao.

 Bản thần tích tại đền Hữu Lộc

II. DỊCH NGHĨA

THẦN TÍCH XÃ HỮU LỘC

Ngọc phả ghi chép Tiền Lý Nam đế và Linh Nhân Hoàng Thái hậu.

Thuộc Bộ phần Thượng đẳng thần, chi Càn.

Bản chính Bộ Lễ triều ta.

Xưa nước Việt ta, họ Hùng mở mang cơ nghiệp, các bậc thánh tổ dựng cơ đồ được 18 đời, tương truyền thịnh trị được hơn 2000 năm. Cha truyền con nối đều lấy Hùng Vương làm tôn hiệu, ngọc, bạch, xa, thư, giang sơn đều thu về một mối. Đó là tổ tiên của Bách Việt ta vậy, truyền đến Duệ Vương thì không có người nối dõi, bèn nhường nước cho Thục An Dương Vương.

Thục An Dương Vương giữ nước được 50 năm đã bị Triệu đà cướp nước. Từ đó nước ta lệ thuộc vào nhà Hán, trải qua các triều đại Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương. Đến thời nhà Lương sai Tiêu Tư sang làm Thái thú cai quản nước Việt ta. Tiêu Tư vốn là người tham tàn bạo ngược, thi hành chính sách hà khắc.

Trăm họ nước Việt ta chịu cảnh lầm than không chốn cậy nhờ, nhưng may thay có người trong lòng đã chất chứa nỗi u uất này muốn thay ý trời muốn dẹp yên! Bấy giờ ở Long Hưng, Thái Bình có người họ Lý tên Bí, tổ tiên của ông là người phương Bắc.

Cuối thời Tây Hán phải khổ sở việc chinh chiến dịch dã mới lánh sang nước Nam sinh sống ở đây, đến đời ông cũng được 7 đời rồi. Dựa vào dấu tích xưa, cha của ông là Lý Công Chước, mẹ là Trương Thị Hằng. Mẹ ông mộng thấy cưỡi rồng bay lên trời ôm được Thái dương Tinh quân mà hạ xuống thì bỗng nhiên tỉnh giấc, biết là gặp giấc mộng lành mà thôi. Thế rồi bà có mang mà đến khi sinh ông (Lí Bí) ngày 12 tháng 7 giữa mùa Thu năm Nhâm Thân,đương lúc sinh ra,hào quang đầy phòng, khí lành bao phủ xung quanh, mọi người đều hô rằng: Hương thơm từ hài nhi sinh ra đó.

Ông sinh ra minh mẫn chẳng học mà cũng biết. Trên tường thiên văn dưới tường địa lý tất cả đều tinh thông. Năm ông vừa 16 tuổi, cha mẹ đều lần lượt qua đời. Năm ông 19 tuổi, ông ra làm quan nhà Lương làm chức Thái bộc, đến khi nhà Lương gặp loạn, ông trở về Thái Bình chiêu hiền nạp sĩ, dấy quân khởi nghĩa. Ông xem xét thấy nơi nào nước Việt ta có đất đai trù phú, dân cư trọng yếu vững chắc, ông đều lập đồn doanh để làm nơi phòng ngự.

Một hôm ông dẫn quân đi qua khu An Để, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam; ông xem xét địa thế thấy thế đất nước uốn quanh co như rồng uốn khúc, bên cạnh có một dòng sông nhỏ chảy vòng quanh, sơn thủy hữu tình. Vả lại nơi đây nhân dân no đủ, phong tục thuần hậu, đất nơi đây có thể lập một đồn doanh, ông cao hứng ngâm mấy câu thơ:

Thành thị lâu đài giai bảo ngọc,

Giang sơn hoa thảo tổng đan thanh.

Dư khí chung thành tuy tiểu mạch,

Điện cư chân khả kiến cung thành.

Dịch thơ: “Thành thị lâu đài xinh tựa ngọc

Núi sông, hoa cỏ ngát màu xanh

Thừa khí chung thành, tuy đất hẹp

Nơi đây có thể dựng cung thành”

Mới biết hào khí dân tộc được đúc nên từ những mạch nguồn nhỏ quý giá, Cho nên nơi đây rất xứng đáng được dựng nên cung thành chiến lược. Hôm ấy ông lập tức sai quân lính cùng nhân dân xây dựng một đồn doanh ở phía bờ ngạn sông nhỏ bên cạnh khu dân cư, tọa Bắc hướng Nam phân Kim kiêm hướng Đông Nam, mọi việc hoàn tất. Từ đó ông Đông chinh Tây chiến thường thường qua lại trú binh nơi này.

Lại nói:

Bấy giờ ở khu Tây Để có người con gái nhà họ Đỗ tên là Khương Nương. Dựa vào dấu tích xưa, cha của Khương Nương là Đỗ Công Cẩn, mẹ là Bùi Thị Hoan, vốn là người khu Tây Để, gia thế lấy nghề y sinh sống. Ông Đỗ đã ngoài 50 tuổi mà chưa có con. Vợ chồng ông đi lễ cầu đảo đến chùa Phật Sơn, mộng thấy có một người trao cho một chiếc gương tròn, đến khi trở về thấy cảm động trong người mà có thai.

Đến kỳ sinh nở vào ngày mùng 10 tháng 11 mùa Đông năm Đinh Sửu, bà sinh hạ được một người con gái má phấn môi hồng, mắt phượng mày ngài. Hai vợ chồng vui mừng khôn xiết đặt tên cho con là Khương Nương. Năm 16 tuổi tròn, Khương Nương nhan sắc tuyệt trần, cho dù tiên nữ chốn Bồng Doanh hay người đẹp nơi Lãng Uyển cũng chẳng thể vượt qua. Vả lại ngay từ nhỏ nàng đã theo học tinh thông tử, Sử; người đương thời gọi là bậc nữ trung mà còn hơn cả nam giới.

Tuy nhiên chốn thiềm cung còn đóng, nhụy ngọc đương phong, mối lương duyên chưa hẹn cùng ai. Bấy giờ Lý công nghe biết nàng tài sắc vẹn toàn bèn nói với Đỗ Công xin được đính ước kết duyên trăm năm cùng với Khương Nương. Đỗ Công mừng lắm liền đồng ý. Thế rồi chọn ngày ngày lành tháng tốt định lễ sánh đôi duyên hòa hợp cùng nhau. Từ đấy ông lập làm đệ nhất cung phi, cho nàng ở lại khu Tây Để để phụng sự cha mẹ nàng. Xong việc, mổ trâu bò khao thưởng quân sĩ, ông chọn đinh phu trai tráng trong khu Tây Để được 36 người để làm người hầu cận thân tín.

Hôm ấy liền đem quân thẳng tiến, trên thuyền thì chiêng trống sấm vang lừng ngàn dặm, trên đường tinh kỳ hai bên như ảnh bóng long xà lay động, tiến thẳng đến thành Tiêu Tư đánh lớn một trận, Tiêu Tư đại bại bỏ thành tháo chạy. Lý công chiếm giữ được thành ấy nhưng chưa được bao lâu quân Lâm Ấp lại vào cướp bóc. Ông lại sai Đại tướng Phạm Tu đại phá quân Lâm Ấp.

Thiên hạ thái bình, trộm cướp được dẹp yên. Ông lên ngôi Hoàng đế, tự lập lên nhà Tiền Lý Nam đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đặt kinh đô là thành Long Biên. Năm ấy, cũng sách phong cho Khương Nương làm Hoàng hậu lấy khu Tây Để làm nơi nghỉ ngơi cho Hoàng hậu. Dân được ban cho miễn các hạng mục như tô thuế, binh phu. Từ đấy Tây Để có một thôn trang đều được nhận phúc lành tất thảy đều được vinh hiển giàu có như vậy.

Lại nói:

Từ khi Khương Nương vào triều đã được 4 năm, một hôm Đỗ Công bỗng bị bệnh cảm ngoài rồi Đỗ Công mất. Vua cho Hoàng hậu và một viên Đại tướng đưa Hoàng hậu về khu Tây Để hành lễ an táng. Từ khi Đỗ Công mất, phu nhân của ông vì đau buồn trước cái chết của chồng mà lâm bệnh nặng, thuốc thang chữa trị mà chẳng thuyên giảm, cầu thần cũng chẳng công hiệu.

Phu nhân cũng qua đời, Hoàng hậu bèn hành lễ mai táng, viết biểu tấu với vua xin cho phép ở lại quê nhà chịu tang cha mẹ và được vua chấp thuận và ban cho vô số vàng bạc, lụa là gấm vóc.

Từ đấy, Hoàng hậu ở khu Tây Để chuộng làm việc nhân nghĩa, phát chẩn cứu bần. Phàm trong nhân dân từ người già yếu cho đến người cô quả Hoàng hậu đều đem của cải trong nhà ra cứu giúp. Tất thảy nhân dân đều ca ngợi ân đức, đội ơn như trời biển, thân yêu như cha mẹ vậy.

Lại nói: Bấy giờ Lý Nam đế ở ngôi đã được 7 năm, nhà Lương sai Trần Bá Tiên đem quân xâm chiếm nước Nam để rửa mối nhục. Bấy giờ vua đóng quân ở hồ Điển Triệt quân Lương không dám tiến lại gần, đã hơn năm mà chưa phân thắng bại. Bấy giờ vào tháng 6 mùa Hạ, nước sông dâng lên khắp mặt hồ, Bá Tiên thừa cơ chỉnh đốn thuyền bè theo dòng nước mà thẳng tiến vào hồ Điển Triệt, quân của vua bị thua to.

Vua trao quyền hành cho Đại tướng Triệu Quang Phục, vua phải lui vào giữ động Khuất Lạo rồi qua đời (Bấy giờ là ngày 15 tháng 7). Khi đó trời đất bỗng nhiên tối tăm qua 3 ngày thì trời quang mây tạnh, tại nơi này đã thấy mối đắp thành gò lớn. Lúc này Khương Nương Hoàng hậu đang ở khu Tây Để khóc lóc ầm trời, không ai ngăn nổi, lập tức truyền cho nhân dân xây dựng một đền ở nơi bên bờ sông nơi cung doanh, dựa vào phương hướng mà viết Thần vị hiệu rằng: Tiền Lý Nam đế Hoàng đế, để phụng thờ vua.

Công việc xong xuôi Khương Nương bèn ban cho nhân dân 10 hốt vàng để nhân dân mua nhiều ao ruộng để làm vốn công. Lúc đó Khương Nương bảo với nhân dân rằng: Ta với nhân dân đã thành tình nghĩa lâu rồi, chẳng phải một ngày mà nên há lại quên sao? Ví như ta về sau trăm tuổi thì nhân dân viết Thần vị hiệu để phụng thờ với Tiên đế, cùng được phối hưởng.

Nhân dân nên tuân theo lệnh của ta không được thay đổi. Lúc đó nhân dân đều lạy tạ nhận lệnh. Việc xong Khương Nương và 6 người hầu cùng vào động Khuất Liêu thăm dò lăng mộ của Tiên đế. Trên đường đi mới vào đến trong động, bỗng nhiên thấy trời đất mờ mịt, sấm chớp ầm vang, trong một khoảnh khắc mây đen tan biến thì Khương Nương đã không còn thấy đâu nữa rồi.

Chỉ thấy bên cạnh lăng mộ của Tiên đế đắp nổi lên một gò đất (Bấy giờ là ngày 16 tháng 2). Lúc đó mấy người thị nữ theo Khương Nương đến đấy nhìn thấy sự tình như vậy tất cả đều kinh hãi. Trở về nói với nhân dân thì nhân dân đều nói ngày 16 tháng đó, nhân dân đều nhìn thấy có một Đại tinh (hình người to lớn) giống như dải lụa từ phương Nam bay ngang thẳng đến trước miếu rồi biến mất.

Đến lúc này, khi nghe tin Hoàng hậu đã hóa thì nhân dân đều lấy làm kinh sợ. Hôm đó nhân dân hành lễ viết Thần vị hiệu rằng: Khương Nương Hoàng hậu, để phụng thờ với Lý Nam đế, đặt cùng một nơi.

Lại nói: Từ khi Lý Nam đế đã băng hà, Tướng quân Triệu Quang Phục đem quân về giữ đầm Dạ Trạch, lập đàn cầu đảo trời đất, sau 3 ngày thấy một ông lão cưỡi rồng vàng từ trên trời bay thẳng xuống, tuốt móng rồng trao cho Quang Phục. Quang Phục đem làm nỏ gọi là Long qua thần nỏ (Thần nỏ móng rồng). Phàm có những khi mạnh khi yếu mọi lúc đều không có ai chống lại được.

Vì thế mà bình định được giặc Lương, Quang Phục tự lập làm Triệu Việt Vương. Bấy giờ có con của anh trai Tiền Lý Nam đế (Tức là con của Đào Lang Vương) tên là Lý Phật Tử cùng con là Nhã Lang khởi binh ý đồ muốn khôi phục nhà Lý nhưng Triệu Việt Vương có Long qua thần nỏ, nên khi giao chiến quân của Lý Phật Tử đều thua cả.

Một ngày Lý Phật Tử cùng với các tướng sĩ bàn âm mưu cầu hôn con gái của Triệu Việt Vương là Cảo Nương, xin cho Nhã Lang kết duyên vợ chồng. Việt Vương đồng ý, quần thần đều can ngăn nhưng không nghe. Thế là Lý Phật Tử sai Nhã Lang nhập vào hàng quân để làm tin.

Từ đấy, Triệu Việt Vương rất tin yêu Nhã Lang. Trải qua thời gian 1 năm, một ngày Nhã Lang cùng Cảo Nương ngồi uống trà, nhân đó mới hỏi Cảo Nương rằng: Xưa kia 2 nước cùng là kẻ thù giao chiến không ngừng, nay đã nên duyên Tần - Tấn thì việc chiến tranh cũng có thể đã dứt rồi.

Nhưng xưa kia Hoàng phụ có dị thuật gì mà khiến cho phụ thân ta nhiều lần thua trận? Cảo Nương chẳng để ý đem Long qua Thần nỏ cho Nhã Lang xem. Nhã Lang trộm nhìn biết được như vậy.

Một ngày khác hoán đổi nỏ thần, lấy trộm móng rồng cất giấu một nơi. Xong việc Nhã Lang xin vua cho về thăm cha, vua cho về. Nhã Lang vội vàng phi ngựa chạy về đem tâu với cha mình. Lý Phật Tử biết vậy đem quân tới đánh Triệu Việt Vương. Triệu Việt Vương thần nỏ đã mất bỏ thành mà chạy thẳng đến của biển Đại Nha mà mất, tàn quân còn lại đều được dẹp yên. Phật Tử lên ngôi tự lập làm Hậu Lý Nam đế.

Ông bèn luận công ban thưởng các cấp bậc. Thế rồi tặng phong sắc chỉ, mỹ tự cho bách thần. Bèn tôn phong cho Tiền Lý Nam đế sắc chỉ là Thượng đẳng Tôn thần, lại tôn phong cho Khương Nương làm Linh Nhân Hoàng Thái hậu.

Truyền cho các địa phương sở tại, trang khu của Đồn doanh được thiết lập của Lý Nam đế trước đây, nhanh chóng trở về kinh thành nghênh đón sắc phong mang về nhân dân để phụng thờ.

Bấy giờ khu Tây Để nghe được chiếu chỉ, các bậc phụ lão tới kinh thành hành lễ rước sắc về, nhân dân sửa sang miếu điện để phụng thờ. Từ đấy về sau, nhân dân - đất nước cầu đảo đều tỏ rõ linh ứng.

Khi nước Nam trải qua các triều đại có Đinh, Lê, Lý, Trần 4 nhà khai sáng nghiệp lớn, đã có giúp nước cứu dân. Đến cuối nhà Trần, họ Hồ tranh ngôi, giặc Minh làm loạn. Bấy giờ có người ở động Lam Sơn, huyện Lương Giang, phủ Thiệu Thiên, Ái Châu họ Lê tên Lợi khởi nghĩa Lam Sơn với ba ngàn quân đã tiễu trừ được họ Hồ và dẹp yên giặc Minh. Liền lên ngôi Hoàng đế ở Lam Sơn đó là Lê Thái tổ, lấy niên hiệu là Thuận Thiên.

Truyền ngôi đến Chiêu Tông, vì quyền thần họ Mạc chiếm ngôi. Bấy giờ có Đại thần là Nguyễn Thái úy tiến đánh, một ngày quan tướng quân của Thái úy tiến qua miếu sở của khu Tây Để hành lễ cầu đảo, cầu âm phù đánh giặc giúp nước dẹp giặc khiến cho sau này đất nước được thanh bình sẽ cùng nhau được hưởng phúc lành. Hành lễ xong đem quân tiễu trừ giặc Mạc.

Đến khi thiên hạ thái bình Thái úy cùng Chiêu Tông trở về chính cung lên ngôi Hoàng đế. Thế rồi ban thưởng công lao ba quân, gia phong tướng sĩ các cấp theo thứ bậc, cho đến việc truy phong Bách thần giúp nước.

Quan Thái úy hành biểu tâu khi xưa cũng đã cầu đảo ở miếu sở khu Tây Để. Vua nghe biết bèn gia phong sắc chỉ, lệnh cho quan Thái úy rước sắc về khu Tây Để hành lễ tế tự. Thái úy phụng mệnh để làm hương khói ngàn năm, cùng hưởng phúc lành với đất nước kéo dài mãi mãi trường tồn. Kính cẩn thay!

Thứ nhất tôn phong cho Tiền Lý Nam đế Hoàng đế là Thượng đẳng Tôn thần.

Thứ hai phong cho Lý triều Linh Nhân Hoàng Thái hậu.

Ban cho khu Tây Để, trang An Để, huyện Thư Trì, phủ Kiến Xương, đạo Sơn Nam phụng thờ.

Thứ ba theo các tiết Khánh hạ, ngày hóa, ngày sinh và tên húy tên tự: Hai chữ Bí, Khương cùng Thánh phụ, Thánh mẫu xem xét rõ trong đó tất thảy đều tránh âm tên phụ mẫu. Đền chính ở động Khuất Liêu.

- Ngày 12 tháng 7, sinh Hoàng đế. Lễ dùng trâu bò, ca hát.

- Ngày 15 tháng 7, ngày hóa của Hoàng đế. Lễ dùng lợn đen, xôi, rượu.

- Ngày mùng 10 tháng 11, ngày sinh Hoàng hậu. Lễ dùng tế trên mâm chay oản, quả; mâm dưới dùng lợn đen, xôi, rượu.

- Ngày 16 tháng 2, ngày Hoàng hậu hóa. Lễ dùng y như lệ trước ngày sinh của Thần.

- Ngày Khánh hạ mùng 2 tháng Giêng, ngày mùng 2 tháng 12. Hành lễ tùy theo.

Phàm trong thiên hạ các trang, khu phụng thờ Lý Nam đế tổng cộng có 87 nơi mà khu Tây Để là thứ 28 trong đó.

Ngày tốt tháng đầu Thu năm Hồng Phúc nguyên niên (1572)

Hàn lâm viện Đông Các Đại học sĩ thần Nguyễn Bính phụng mệnh soạn.

Ngày tốt tháng giữa mùa Hạ năm Hoàng triều Vĩnh Hựu thứ 4 (1738).

Quản giám bách thần Tri điện Hùng lĩnh Thiếu khanh thần Nguyễn Hiền lại tuân theo bản chính triều cũ phụng mệnh sao chép.

Bản Thần tích trên đây được sao chụp, phiên âm và dịch nghĩa từ Viện Nghiên cứu Hán Nôm cung cấp là do đề nghị của ông Đặng Xuân Lê ở thôn Hữu Lộc, xã Xuân Hòa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình.

Viện Nghiên cứu Hán Nôm xác nhận ông

Phùng Văn Thành là cán bộ của Viện

Hà Nội, ngày mùng 8 tháng 10 năm 2021

Người dịch

Phùng Văn Thành

Nguồn: Đền Miếu Việt

0   Tổng số:
http://www.didulich.net/gia-tri-lich-su/dinh-phung-phap-di-tich-kien-truc-nghe-thuat-31635'> Đình Phụng Pháp, di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia 300 tuổi ở Hải Phòng
  • Những di tích nổi tiếng quận Hoàn Kiếm gắn liền lịch sử nghìn năm của Hà Nội
  • Đình Thư Trung, Hải An thờ phụng vua Ngô Quyền
  • Đền Trúc Lâm, Gia Lâm thờ phụng thần Cây Gạo
  • 12345...>>