Hà Nội có “Thăng Long tứ trấn” với bốn ngôi đền thiêng để ta sùng kính. Và, Hà Nội còn có “Thăng Long tứ quán” nổi danh để ta cảm nhận một thời “Tam giáo đồng nguyên”.
Thăng Long tứ quán là bốn quán của Đạo giáo ở đất Thăng Long
xưa. Quán là nơi tu hành của những người theo Đạo giáo. Ở Thăng Long có bốn Đạo
quán lớn, bao gồm:
- Trấn Vũ quán, nay gọi
là đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh.
- Huyền Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên ở phố Hàng
Khoai.
- Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành.
- Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên.
Những Đạo quán này đều xây dựng từ thời kỳ phát triển của Đạo
giáo ở Việt Nam từ xa xưa, nhưng cũng chỉ đến hết đời Mạc. Từ đời Lê Trung
Hưng, do Đạo giáo suy thoái, những đạo quán bị Phật giáo hóa, trở thành chùa.
Bên cạnh tượng các thánh của Đạo giáo còn có thêm tượng Phật.
Bốn đạo quán của Thăng Long xưa, dù nay được gọi bằng các
tên mới, nhưng mỗi “quán” vẫn còn lưu giữ được những giá trị văn hóa truyền thống
rất sâu sắc, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống sinh hoạt tâm linh của nhân
dân.
Trên địa bàn Hà Nội rộng lớn ngày nay có nhiều loại hình di
tích lịch sử - văn hóa là chùa, đình, đền, miếu, quán, phủ, nhà thờ… Quán là một
dạng đền với Đạo giáo (tức đạo Lão); là nơi tu hành của những người theo Đạo
giáo. Hà Nội có các quán ở khắp nội thành và ngoại thành.
Thăng Long tứ quán là bốn quán lớn của đất Thăng Long xưa, gồm:
Trấn Vũ quán - nay gọi là đền Quán Thánh, ở phố Quán Thánh, quận Ba Đình; Huyền
Thiên quán - nay là chùa Huyền Thiên, ở phố Hàng Khoai, quận Hoàn Kiếm; Đồng
Thiên quán - nay là chùa Kim Cổ, ở phố Đường Thành, quận Hoàn Kiếm; Đế Thích
quán - nay là chùa Vua, ở phố Thịnh Yên, quận Hai Bà Trưng.
Đạo giáo được du nhập từ phương Bắc vào nước ta từ đầu Công
nguyên cho đến thời Mạc. Từ thời Lê Trung hưng, Đạo giáo bắt đầu lụi tàn, suy
thoái. Những đạo quán được chuyển thành chùa, bên cạnh các tượng Thánh của Đạo
giáo còn có thêm tượng Phật; duy chỉ còn Trấn Vũ quán có tượng Trấn Vũ quá lớn,
nên vẫn giữ được bản chất đạo quán.
Trấn Vũ Quán
Quán Trấn Vũ còn gọi là đền Quán Thánh, có lẽ là cái tên được
nhiều người biết đến nhất; quán tọa lạc ở số 13 đường Thanh Niên, phường Quán
Thánh, quận Ba Đình. Hình ảnh và âm thanh tiếng chuông Trấn Vũ khá quen thuộc với
mỗi người khi con thơ bé: “Gió đưa cành trúc la đà/ tiếng chuông Trần Vũ, canh
gà Thọ Xương”. Hơn nữa, quán Trấn Vũ cũng nổi danh là đền thiêng trấn phía Bắc
trong “Thăng Long tứ trấn” của đất kinh kỳ.
Trấn Vũ Quán. Ảnh: internet
Thánh Trấn Vũ là một hình tượng kết hợp nhân vật thần thoại
Việt Nam (ông Thánh đã giúp An Dương Vương trừ ma quỷ trong khi xây dựng thành
Cổ Loa) và nhân vật thần thoại Trung Quốc (thánh coi giữ phương Bắc).
Tương truyền, quán được xây dựng từ đời Vua Lý Thái Tổ (1010
- 1028). Ban đầu tọa lạc bên trong Kinh thành Thăng Long, đến năm 1474 khi mở rộng
Hoàng thành, Vua Lê Thánh Tông đã cho di chuyển quán ra địa điểm bên cạnh Hồ
Tây. Quán Trấn Vũ (đền Quán Thánh) đã được tu sửa nhiều lần, nhưng diện mạo hiện
nay có từ lần sửa chữa năm 1893.
Trong đền có pho tượng Trấn Vũ bằng đồng đen đúc năm Vĩnh Trị
thứ hai (1677) đời Vua Lê Hy Tông (1676 – 1705). Tượng cao 3,96m, nặng 4 tấn,
có hình dáng một người ngồi, y phục gọn gàng nhưng tóc lại bỏ xõa, chân không
giày dép, tay trái bắt quyết, tay phải chống gươm; thân gươm có vắn quần và chống
lên lưng rùa. Đó là hình dáng một đạo sĩ.
Lễ hội đền Quán Thánh được tổ chức vào các ngày 01-01 và
01-03 Âm lịch hằng năm. Đền Quán Thánh đã được xếp hạng Di tích quốc gia năm
1962.
Huyền Thiên quán
Quán Huyền Thiên có tên chữ Hán là “Huyền Thiên Cổ quán”,
thường gọi là chùa Huyền Thiên hoặc đền Huyền Thiên. Quán Huyền Thiên tọa lạc ở
số 54 phố Hàng Khoai, phường Đồng Xuân, quận Ba Đình.
Quán Huyền Thiên là nơi thờ Huyền Thiên Thượng đế, một trong
những vị thánh tiêu biểu của thần điện Lão giáo. Theo quan niệm của Đạo giáo,
thần Huyền Thiên là vị thần có nhiệm vụ trấn giữ phương Bắc.
Cổng chùa Huyền Thiên. Ảnh: internet
Huyền Thiên cổ quán có bố cục kiểu “Nội công ngoại quốc”,
các dấu tích kiến trúc, mỹ thuật hiện còn, đều mang dấu tích của những lần tu sửa
nằm 1930, 1948. Sau Nghi môn - gác chuông là sân quán với hai nhà bìa lớn và
hai giếng (tương truyền là hai giếng cổ thiên tạo).
Tiếp theo là phần “Nội công” vẫn còn nguyên vẹn với Bái đường
7 gian, có kiến trúc theo kiểu vọng lâu hai tầng, tám mái, đây cũng là nơi đặt
pho tượng Huyền Thiên.
Hằng năm, quán Huyền Thiên có hai ngày lễ lớn là 03-03 và
09-09 Âm lịch.
Với tính chất là một ngôi quán thờ Thánh (theo quan niệm Lão
giáo), lại là ngôi chùa thờ Phật (theo quan niệm Phật giáo) và ngôi đền thờ Mẫu
(theo tín ngưỡng dân gian Tam phủ - Tứ phủ), sự kết hợp hài hòa trong kiến trúc
và tôn giáo đã làm Huyền Thiên cổ quán trở thành một điểm văn hóa, cảnh quan độc
đáo trong khu phố cổ và Thủ đô Hà Nội. Quán Huyền Thiên đã được xếp hạng Di
tích quốc gia năm 2007.
Đồng Thiên Quán (chùa Kim Cổ)
Đồng Thiên Quán còn gọi là chùa Kim Cổ hoặc đền Kim Cổ, tọa
lạc ở số 73 phố Đường Thành, phường Cửa Đông, quận Hoàn Kiếm. Đây nguyên thuộc
địa phận thôn Kim Bát, sau đổi là thôn Kim Cổ, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương,
Kinh thành Thăng Long; sau đó tổng Tiền Túc đổi thành tổng Thuận Mỹ, huyện Thọ
Xương.
Đồng Thiên Quán (chùa Kim Cổ) gắn bó với lịch sử tôn thờ
Nguyễn Phi Ỷ Lan (?- 1117).
Cảnh quan chùa Kim Cổ. Ảnh: internet
Thế kỷ XI, Vua Lý Thánh Tông đã xây dựng Cung điện tại Kim Cổ
dành cho Nguyên phi Ỷ Lan. Thời gian Nguyên phi ở đây, Bà đã cho dựng quán Đồng
Thiên trong khu vực Cung điện.
Đầu thời Tây Sơn, quán được dời sang thôn An Thái, trên khu
nền cũ, dân làng Kim Cổ đã dựng ngôi đền thờ Linh Nhân Hoàng Thái hậu Ỷ Lan. Đời
Tự Đức triều Nguyễn, cùng với việc mở rộng quy mô của đền thờ Ỷ Lan, Phật giáo
cũng được đưa vào thờ tại đền, từ đó di tích có thêm tên gọi là chùa.
Nội dung Di tích chùa Kim Cổ hiện bao gồm việc thờ Phật và
nơi tưởng niệm nhân vật lịch sử Nguyên phi Ỷ Lan.
Hiện nay, chùa Kim Cổ còn bảo lưu được bộ di vật gồm: 8 pho
tượng Phật thuộc nghệ thuật thế kỷ XIX, 01 tượng Nguyên phi Ỷ Lan ngồi trong
khám, một số pho tượng Mẫu, tượng Chầu…
Chùa Kim Cổ được xếp hạng Di tích quốc gia năm 1996.
Đế Thích quán (chùa Vua)
Đế Thích quán (tức chùa Vua) là tên gọi chung quen thuộc của
Cụm Di tích chùa Hưng Khánh và điện Thiên Đế, trước đây thuộc làng Thịnh Yên, tổng
Hậu Nghiêm, huyện Thọ Xương; nay là số 17 phố Thịnh Yên, phường Phố Huế, quận
Hai Bà Trưng.
Cổng chùa Vua. Ảnh: internet
Theo truyền thuyết, chùa Vua được xây dựng từ thời Lý. Đến
thời Lê sơ (1428 - 1527), nơi đây là cung Thừa Lương, có chùa Hưng Khánh với hồ
bán nguyệt, cây cối xanh tươi thường dành cho các bà chúa đến tắm gội.
Một ông hoàng Triều Lê vốn tôn kính các bậc cờ cao đã lập đền
thờ Đế Thích bên cạnh chùa. Hằng năm, Vua Lê cùng các hoàng tử và các đại thần,
trước khi đến đàn Nam Giao làm lễ tế trời đất, thường đến đây cầu quốc thái dân
an nên dân ta quen gọi là chùa Vua, và có câu “Muốn sống lâu, cầu Đế Thích”
(sách nhà Phật và thần thoại Ấn Độ coi Thiên Đế trợ thủ Đức Phật Thích ca sơ
sinh…, cũng là bậc Vua Cờ.
Thần thoại nước ta cũng xem Đế Thích là bậc cao cờ nhất
trong thiên hạ). Thế là nơi đây trở thành trung tâm đấu cờ tướng của Kinh đô
Thăng Long xưa. Sau này, dân làng Thịnh Yên có tục mở hội để kỷ niệm và thi đấu
cờ tướng vào dịp đầu xuân.
Trong khuôn viên di tích có hai kiến trúc nằm sát nhau: Khu
chùa Hưng Khánh có chùa chính làm theo hình chữ “Đinh”, điện Mẫu, hành lang và
Tam quan; khu điện Thiên Đế có Nghi môn, Tiên tế, Hậu cung, nhà bia và bàn cờ.
Pho tượng Vua Đế Thích bằng gỗ cao khoảng 1,6m được đặt trong Hậu cung của điện.
Lễ hội chùa Vua được tổ chức hằng năm từ ngày 6 đến 9 tháng
Giêng Âm lịch, với hoạt động chính là “mở hội cờ” thi đấu cờ tướng, để mừng
ngày Đế Thích đản sinh.
Chùa Vua được xếp hạng Di tích quốc gia năm 1992.
TS Lưu Minh Trị