Đời muôn thuở vẫn thường như vậy, những kẻ nào nhu nhược, yếu hèn trong cuộc chiến vì nghĩa lớn, luôn luôn là kẻ liều lĩnh xâu xé quyền lợi trong thái bình. Lý Phật Tử là một trong số những kẻ đó.
Sau lần bị bại trận ở Ái Châu, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử chạy
về động Dã Năng, lập ra nước Dã Năng. Lý Thiên Bảo xưng là Đào Lang Vương, sống
an phận thủ thường trong khu vực lãnh địa riêng của mình. Năm Ất Hợi (555), Lý
Thiên Bảo qua đời ở Dã Năng, do không có con nối dõi nên người cùng họ là Lý Phật
Tử được đưa lên kế nghiệp.
Đời muôn thuở vẫn thường như vậy, những kẻ nào nhu nhược, yếu
hèn trong cuộc chiến vì nghĩa lớn, luôn luôn là kẻ liều lĩnh xâu xé quyền lợi
trong thái bình. Lý Phật Tử là một trong số những kẻ đó.
Lý Phật
Tử (李佛子; ?-602), người Thái Bình, phủ
Long Hưng (Sơn Tây), là cháu họ của Lý
Nam Đế. Khác với Lý Thiên Bảo, Lý Phật
Tử xưng Đế chứ không chịu yên vị với ngôi Vương, vì thế, để phân biệt với đức
ngài Lý Bôn (Lý Bí), các bộ sử cũ thường gọi Lý Bôn là Tiền Lý Nam Đế và gọi Lý
Phật Tử là Hậu Lý Nam Đế. Năm 557, Lý Phật Tử bỏ động Dã Năng và đem hết binh
tướng bộ hạ về quê hương Thái Bình.
Tại đây, Lý Phật Tử lôi kéo họ hàng dòng tộc, tập hợp lực lượng
để nhằm... đánh Triệu Việt Vương. Về phần mình, Việt Vương Triệu Quang Phục do
thấy Lý Phật Tử là người cùng họ với Lý Nam Đế nên cũng có phần cả nể.
Năm trận ác chiến diễn ra tại Thái Bình, tuy đôi bên chưa
phân thắng bại nhưng “quân của (Lý) Phật Tử có phần núng thế. Lý Phật Tử ngờ Triệt
Việt Vương có phép lạ bèn xin được giảng hoà và ăn thề là sẽ giao hiếu hoà thuận
với nhau. Vua (chỉ Triệu Việt Vương - NKT) nghĩ Lý Phật Tử là người cùng họ với
Tiền Lý Nam Đế nên không nỡ cự tuyệt”.
Sau lễ ăn thề, hai bên lấy bãi Quần Thần làm ranh giới để
chia quyền cai quản. Lý Phật Tử dời sở trị của mình từ Thái Bình về thành Ô
Diên còn Triệu Việt Vương thì vẫn trị vì tại thành Long Biên. Thế song lập về
chính trị và cục diện chia cắt khiến đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng mới và
tiềm lực quân sự bị cạn kiệt rất nhanh.
Thống nhất quốc gia trở thành một nhu cầu lớn và rất cấp
bách của xã hội đương thời. Bất chấp lời thề, Lý Phật Tử đã thực hiện việc thống
nhất quốc gia bằng thủ đoạn lợi dụng hôn nhân tương tự như trước đó hơn 700 năm
Triệu Đà đã làm.
Do biết Triệu Việt Vương có người con gái tên là Cảo Nương rất
xinh đẹp nên Lý Phật Tử đã cậy nhờ mai mối, xin hỏi Cảo Nương về làm vợ cho con
trai mình là Nhã Lang (cũng tức là Bát Lang). Nể trọng người cùng họ với Lý Nam
Đế, lại thấy hai bên đã tổ chức ăn thề hoà hiếu với nhau, Triệu Việt Vương không
chút nghi ngờ, chấp nhận gả Cảo Nương cho Nhã Lang, hơn thế nữa và cho Nhã Lang
được đến ở rể ngay trong thành Long Biên.
Sự kiện này xảy ra trong năm 557, tức là ngay sau khi năm trận
ác chiến giữa đôi bên vừa kết thúc. Kịch bản hiểm độc cũ của Triệu Đà được Lý
Phật Tử tái diễn gần như nguyên vẹn : Triệu Việt Vương hoàn toàn tin ở con rể,
tin ở thông gia, tin ở con gái đến mức mơ hồ trước mọi dị nghị và mất cảnh
giác.
Có được tin mật báo và nội ứng từ con trai, Lý Phật Tử lợi dụng
lúc Việt Vương sơ hở, năm 571 mang quân đánh úp.
Bị đánh bất ngờ, Triệu Việt Vương thất bại, phải đem con gái
chạy, nhưng đến đâu cũng bị quân Lý Phật Tử đuổi theo. Cuối cùng, khi Việt
Vương cưỡi ngựa chạy đến cửa biển Đại Nha (sông Đáy). Ngày 14/8 cùng đường, ông
nhảy xuống biển tự vẫn.
Đền Cẩm Nang, nơi thờ phụng Triệu Việt Vương tại điểm dừng chân cuối cùng trước khi ông trẫm mình tại cửa Đại Nha
Đó là nền tảng có thật của truyền thuyết li kì về cuộc hôn
nhân giữa Nhã Lang với Cảo Nương, được hầu hết các bộ chính sử xưa và một số bộ
dã sử chép lại. Đại lược như sau :
Khi còn ở khu căn cứ bãi Tự Nhiên và đầm Dạ Trạch, Triệu Việt
Vương được linh thần là Chử Đồng Tử tặng cho cái móng rồng để cài lên mũ đâu
mâu. Đội mũ ấy vào, hễ Triệu Việt Vương hướng móng rồng về phía nào là quân giặc
ở phía đó phải thất bại thảm hại.
Nhờ móng thần ấy, Triệu Việt Vương đánh tan quân Lương và
chém được tướng tổng chỉ huy của chúng là Dương Sàn rồi tiến vào chiếm thành
Long Biên, khôi phục nền độc lập và tự chủ.
Sau khi Lý Thiên Bảo mất ở động Dã Năng, Lý Phật Tử kế vị và
do thấy quân Lương bị đánh đuổi, Lý Phật Tử liền đem hết lực lượng của mình về
quê nhà. Đến đây, vì muốn tranh quyền của Triệu Việt Vương, Lý Phật Tử đã đánh
nhau với Triệu Việt Vương năm trận liền, nhưng càng đánh thì thế quân càng núng.
Lý Phật Tử ngờ là Triệu Việt Vương có phép thuật lạ nhưng
chưa rõ là phép thuật gì, bèn nghĩ kế cầu hoà và tổ chức ăn thề rồi xin kết làm
thông gia. Con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang được kết hôn với con gái của Triệu
Việt Vương là Cảo Nương, sau đó, Nhã Lang được vào ở rể ngay trong thành Long
Biên. Được ít lâu, Nhã Lang nói với Cảo Nương rằng :
- Trước đây, hai vua cha của chúng ta là kẻ thù, nay lại kết
làm thông gia, thế chẳng hay lắm sao? Nhưng, cha nàng có thuật gì mà đẩy lùi
quân của cha ta được vậy.
Cảo Nương tưởng chồng thật lòng, bèn lấy chiếc mũ đâu mâu có
gắn móng rồng của cha ra cho chồng xem. Nhã Lang liền đánh tráo móng rồng,
xong, nói với Cảo Nương rằng :
- Bấy lâu nay vợ chồng ta quấn quýt yêu thương nhau, thật
không nỡ xa cách, nhưng tôi nghĩ công ơn cha mẹ lớn như trời đất, tôi cũng đành
phải tạm xa nàng ít lâu để về viếng thăm.
Nhã Lang về đem móng rồng cho cha. Hai cha con cùng bàn kế bất
ngờ cho quân đến đánh úp. Triệu Việt Vương bị thất bại, chạy đến cửa Đại Nha
(193) và nhảy xuống biển tự tử. Kể từ đó, Lý Phật Tử nắm quyền cai trị toàn
cõi.
Về câu chuyện tình li kì giữa Nhã Lang với Cảo Nương và kết
cục bi thảm của Triệu Việt Vương, các sử thần trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn
đã có Lời cẩn án rằng : “Sử cũ chép việc Triệu Việt Vương được cái móng rồng do
Chử Đồng Tử ban cho, việc Nhã Lang đi ở rể và lấy trộm cái móng rồng ấy, việc
Triệu Việt Vương do mất cái móng rồng mà bị thua... đem ráp những việc đó lại rồi
so với chuyện Thục An Dương Vương và Triệu Trọng Thuỷ trước kia thật giống nhau
như hệt vậy.
Sự kì quái trái với lẽ thường đến mức không cần phải biện bạch
thêm. Nhưng, sử cũ chép phần nhiều trùng lắp nhau và sai hẳn sự thực, đại loại
là như chuyện này”.
Dĩ nhiên, chuyện cái móng rồng mà Chử Đồng Tử đã ban cho Triệu
Việt Vương là không thể có thật, nhưng, sự cả nể và cả tin đến mức mơ hồ của
Triệu Việt Vương lại là điều hoàn toàn có thật. Mất cảnh giác cũng có nghĩa là
đã tự đánh mất thứ vũ khí tự vệ quý giá và hữu hiệu nhất. Móng rồng thực chất
cũng chỉ là cách thể hiện theo lối huyền thoại hoá sự thật này mà thôi.
Về sự thất bại của Triệu Việt Vương, Tiến sĩ Ngô Sĩ Liên - sử
gia lỗi lạc thời Lê sơ - đã có lời bàn rất xác đáng rằng : “Nếu lấy bá thuật mà
xét thì Hậu Lý Nam Đế đánh Triệu Việt Vương quả là đắc kế, nhưng nếu lấy vương
đạo mà xét thì việc làm này của Lý Phật Tử còn thua cả chó lợn.
Vì sao lại nói như thế ? Khi Tiền Lý Nam Đế ở động Khuất
Lão, đem binh quyền trao cho Triệu Việt Vương và Triệu Việt Vương đã thu nhặt
tàn quân để giữ đầm Dạ Trạch bùn lầy để đương đầu với Trần Bá Tiên là viên tướng
khét tiếng một thời, bắt giết được tuỳ tướng (của Trần Bá Tiên) là Dương Sàn,
khiến Trần Bá Tiên phải lui quân về Bắc.
Hậu Lý Nam Đế lúc ấy lẩn trốn ở đất Di Lão, chỉ mong thoát
khỏi miệng hùm beo, may mà Trần Bá Tiên thì lui về Bắc. Lý Thiên Bảo lại qua đời
nên Hậu Lý Nam Đế mới được toàn thân và kế nghiệp.
Hậu Lý Nam Đê đem quân đánh Triệu Việt Vương, yếu thế nên mới
dùng mưu gian trá xin hoà, lại xin kết làm thông gia. (Triệu) Việt Vương lấy
lòng thành mà đối đãi, cắt đất cho ở, mọi việc làm đều chính nghĩa, giao hảo rất
phải đạo, thăm viếng cũng rất phải thời, đây há chẳng phải là đạo yên trị lâu
dài đó sao ?
Vậy mà Hậu Lý Nam Đê lại dùng Nhã Lang để thực hiện mưu
gian, vứt bỏ hết cả chính đạo và nhân luân, tham lợi mà huỷ diệt nhân nghĩa,
đang tâm đánh cướp lấy nước, tuy rằng thắng được nhưng Nhã Lang phải chịu chết
trước, sau đến lượt bản thân Hậu Lý Nam Đế cũng không thoát khỏi cảnh bị bắt đi
tù đày, vậy thì có lợi gì đâu”.
Hoàng Giáp Ngô Thì Sĩ (1726-1780) cũng có lời bàn rằng :
"Đã cùng nhau hoà hiếu sao lại còn bội ước, cái móng rồng trên mũ đâu mâu
nào có đáng gì mà nghe mưu gian của trẻ con, đi theo lối cũ của Triệu Đà quả thật
là bất trí quá lắm.
Đến khi quân nhà Tuỳ kéo sang, chúng chưa bắn một mũi tên
nào đã nhục nhã dâng nạp ngọc ngà và dắt dê xin đầu hàng, sao mà ngu đến thế”.
Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái - hai tác giả văn học dân tộc nổi
tiếng của thế kỉ XIX - đã diễn Nôm theo thể lục bát về mưu gian kế hiểm của Lý
Phật Tử và kết cục bi thảm của Triệu Việt Vương như sau :
“Tình con rể, nghĩa vợ chồng.
Tin nhau ai biết ra lòng lừa nhau.
Lân la mới ngỏ tình đầu
Nhã Lang trộm lấy đâu mâu đổi liền.
Trở về giả chước vấn yên,
Giáp binh đâu đã băng miền kéo sang.
Triệu Vương tiến bước vội vàng, Tình riêng còn chửa dứt đường
cho qua.
Đem con chạy đến Đại Nha.
Than thân bách chiến phải ra đường cùng”.
(Đại nam quốc sử diễn ca)
Câu chuyện về tấn bi kịch của Triệu Việt Vương đã để lại những
bài học đắt giá cho hậu thế. Triệu Việt Vương như An Dương Vương, quá tin vào kẻ
thù, cuối cùng nước mất, nhà tan, thân bại danh liệt.
Trong khi đó, Lý Phật Tử dù dùng mọi thủ đoạn để giành thắng
lợi trong cuộc chiến "nồi da nấu thịt", cuối cùng cũng trở thành
"mồi ngon" cho kẻ xâm lược.
Nếu như trong hoàn cảnh đất nước mới chỉ giành được độc lập,
còn non yếu, sơ khai, Lý Phật Tử bỏ qua lòng tham, đặt lợi ích dân tộc lên trên,
chung sức với Triệu Quang Phục, chẳng những đất nước ta chấm dứt được thời kỳ Bắc
thuộc vào thế kỷ thứ VI, trở thành cường quốc mà không cần chờ mãi tới năm 938,
bản thân Lý Phật Tử cũng không bị nạn “nghịch thiên”, bị kẻ thù bắt giải về
Trung Quốc để rồi chết nơi đất khách.
Triệu Quang Phục vì cả tin mà "thân bại danh liệt".
Còn Lý Phật Tử vì dã tâm mà hại muôn dân trăm họ, trở thành "tội nhân
thiên cổ".
Lý Phật Tử đầu hàng nhà Tùy – Việt Nam lại bị phương Bắc đô
hộ
Năm 571, sau khi lập mưu giết hại được Triệu Việt Vương, Lý
Phật Tử đã nắm quyền thống trị toàn cõi. Tuy nhiên, đó chỉ là một chính quyền rất
yếu kém và bạc nhược, trong thì không ban hành được một chính sách trị nước
tích cực nào đáng kể, ngoài thì không thực hiện được một biện pháp hữu hiệu nào
để phòng bị cho quốc gia. Đối với các tập đoàn phong kiến thống trị Trung Quốc,
vấn đề xua quân sang xâm lược và tái thiết nền đô hộ nước ta chỉ còn là thời điểm
cụ thể.
Chính quyền Lý Phật Tử sở dĩ tạm thời được ổn định trong khoảng
hơn ba mươi năm (571- 602) bất quá chỉ vì tình hình Trung Quốc lúc bấy giờ cũng
chưa thật sự yên tĩnh.
Năm 581 (tức là đúng 10 năm sau khi Triệu Việt Vương qua đời)
Dương Kiên xoá bỏ được cục diện Nam-Bắc Triều của Trung Quốc và lập ra nhà Tuỳ.
Trên danh nghĩa thì nhà Tuỳ thống nhất được Trung Quốc nhưng tiềm lực của nhà
Tuỳ chưa mạnh, các cuộc chống đối nhà Tuỳ vẫn liên tục nổi lên.
Năm 590, để mở rộng và khẳng định quyền chi phối của mình ở
Lĩnh Nam, nhà Tuỳ đã lập ra Phủ Tổng Quản tại Quế Châu, giao chức Tổng Quản cho
nhân vật Linh Hồ Li đảm trách.
Với chức vụ này, Linh Hồ Li có quyền uy rất lớn, được phép cắt
đặt tất cả quan lại từ hàm Thứ Sử trở xuống. Đây chính là bước chuẩn bị cho cuộc
Nam chinh của nhà Tuỳ, cũng là mối đe doạ lớn nhất đối với độc lập và chủ quyền
của nước Vạn Xuân.
Bấy giờ, Lý Phật Tử tuy chưa từng đến Phủ Tổng Quản để yết
kiến nhưng trên danh nghĩa công khai đã chịu thần phục Tổng Quản Linh Hồ Li, tức
là đã hoàn toàn chịu thần phục đối với triều đình nhà Tuỳ.
Đầu năm Nhâm Tuất (602), lấy cớ Lý Phật Tử không chịu vào chầu,
triều đình nhà Tuỳ đã sai các tướng Lưu Phương và Kinh Đức Lượng đem khoảng 10
vạn quân (201) đánh Vạn xuân. Lý Phật Tử đã đầu hàng tướng Lưu Phương và lập tức
bị Lưu Phương bắt về Trung Quốc. Ách đô hộ của nhà Tuỳ được thiết lập tại Vạn
Xuân trong 16 năm (602-618).
Tháng 5 năm 617, một quyền thần của triều đình nhà Tuỳ là Lý
Uyên (202) đã bất ngờ khởi binh chống lại nhà Tuỳ và đúng một năm sau (tháng 5
năm 618) thì chính Lý Uyên lật đổ được nhà Tuỳ và lập ra một triều đại mới của
lịch sử chế độ phong kiến Trung Quốc là nhà Đường (618-907) (203).
Ngay sau khi lật đổ nhà Tuỳ, nhà Đường đã thay nhà Tuỳ đô hộ
nước ta. Năm 622 (tức là chỉ mới 4 năm sau khi lật đổ được nhà Tuỳ), Đường Cao
Tổ (204) đã cho lập ra Giao Châu Đô Hộ Phủ (cơ quan cai trị lấy quân sự làm chỗ
dựa chủ yếu nhất).
Đến năm 679, Đường Cao Tông (649-683) đã cho đổi Giao Châu
Đô Hộ Phủ thành An Nam Đô Hộ Phủ (205), và, gắn liền với quá trình thay đổi nói
trên chính là quá trình không ngừng tăng cường ách áp bức bóc lột của phong kiến
nhà Đường.
Bấy giờ, lợi dụng việc triều đình không thể nào kiểm soát hết
dân tình ở tất cả những nơi xa xôi cách trở nên bọn quan lại đô hộ đã ra sức
tìm cách vơ vét tài sản của nhân dân ta. Trong thế kỉ VII, Khâu Hoà (206) và
Lưu Diên Hựu (207) là hai đại diện tiêu biểu cho lực lượng tham quan ô lại này.
Vốn đã uất hận vì cảnh nước mất nhà tan lại phải chịu thêm nạn
bị bọn quan quân đô hộ tước đoạt trắng trợn, dân khắp cõi đương thời ai ai cũng
đều căm tức. Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt và đó chính là nguyên
nhân sâu xa dẫn tới những cuộc vùng lên tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ
cơ đồ thống trị của bọn ngoại bang. Hai lãnh tụ cũng là hai danh tướng nổi tiếng
nhất thế kỉ VII chính là Lý Tự Tiên và Đinh Kiến.
Nguồn: Danh tướng Việt Nam