Lã Đường hay Lữ Đường (chữ Hán: 呂唐; 927 - 968), xưng hiệu Lã Tá công (呂佐公) là một thủ lĩnh thời loạn 12 sứ quân cuối triều nhà Ngô trong lịch sử Việt Nam, cát cứ tại vùng Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên), từng mở rộng địa bàn sang các vùng khác như Đỗ Động Giang (Hà Nội) và Giao Thủy (Nam Định).
Trong số các sứ quân, Lã Tá Đường là vị thủ lĩnh chưa rõ kết
cục là hàng phục Đinh Bộ Lĩnh hay bị tiêu diệt sau khi loạn 12 sứ quân chấm dứt,
nhà nước Đại Cồ Việt ra đời.
Xuất thân
Theo truyền thuyết làng Khoai xưa, tức làng Minh Khai ở thị
trấn Như Quỳnh (Văn Lâm, Hưng Yên) nay là quê hương sứ quân Lã Đường.
Thuở nhỏ ông còn có tên gọi khác là Lã Tá Phi vốn người cao
lớn, thông minh, văn võ song toàn. Ông được sinh ra năm 927, trong một gia đình
hào trưởng giàu có, cha ông là Lã Đại Liệu, nguyên là bộ tướng của sứ quân Trần
Lãm và đã lập được nhiều chiến công dưới thời Ngô Quyền.
Lớn lên ông kế nghiệp cha lập ấp và cai trị nhân dân khu vực
Tế Giang (nay là khu vực các huyện phía bắc Hưng Yên). Gặp thời loạn, thế lực của
ông nổi lên trở thành một trong những đại diện cát cứ mạnh nhất thời 12 sứ
quân.
Làng Khoai nằm cách đình Bến ở huyện Văn Giang, nơi được cho
là lỵ sở của ông khi xưa khoảng 9 km. Cũng theo truyền thuyết khu vực Tế Giang,
trong một lần đánh giặc, ông bị thương ở tay và được một người con gái làng
chài cứu chữa vì cảm động mà lấy người đó làm vợ.
Bà phu nhân sinh cho ông một con trai tài giỏi, tinh thông
võ nghệ, sống hào hiệp, được người dân mến mộ. Lã Lang sau được Lê Hoàn giao là
tướng trấn giữ phòng tuyến bờ Bắc sông Lục Giang trong kháng chiến chống Tống
năm 981.
Thổ hào thành Sứ quân
Cũng giống như sứ quân Nguyễn Siêu ở bên kia sông Hồng và sứ
quân Lý Khuê ở phía bắc, Lã Đường vốn là một thổ hào địa phương ở vùng Tế
Giang.[2] Theo cuốn sách Miền quê Văn Giang của tác giả Trần Khắc Cần – Nhà xuất
bản Văn Hoá Dân tộc - 2004:
Khi giải thích về nguồn gốc huyện Văn Giang thì Tế Giang là
tên một con sông. Sông Tế Giang lớn. Khi nước triều lên, càng rộng, nối sông Hồng
với sông Thương, Sông Cầu, là đường vận tải thuỷ chở các sản vật miền xuôi lên
vùng núi Bắc Giang, Thái Nguyên và ngược lại.
Vào thế kỷ X, nơi đây là vùng đất bùn lầy, quanh co, địa thế
hiểm yếu. Khi nhà Ngô suy yếu, không còn khả năng kiểm soát địa phương, Lã Đường
tự chiêu mộ và xây dựng lực lượng cát cứ, dựa vào địa thế hiểm yếu để cố thủ,
chờ thời cơ nổi dậy.
Lữ Đường từng tấn công tới lãnh địa sứ quân Đỗ Cảnh Thạc.
Truyền thuyết ở khu vực chùa Bối Am, thuộc phạm vi căn cứ Đỗ Động Giang xưa cho
biết: Trước kia có một toán quân của Lã Đường tự Lã Tá Công, một trong Thập nhị
sứ quân, bị quân của sứ quân Đỗ Cảnh Thạc vây hãm trong hang núi và bị chết đói
hết cả.
Đầu năm 968, sau khi chiếm lại vùng Bắc Ninh, vốn do các sứ
quân Nguyễn Thủ Tiệp và Lý Khuê cát cứ, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh chuyển
quân về Siêu Loại, cho Đinh Liễn và Nguyễn Bặc đem 3.000 quân tiến đánh quân Lã
Đường.
Lã Đường chủ trương tản quân để đánh du kích, đóng giữ chỗ
hiểm yếu. Nếu quân Hoa Lư đi đông thì tránh mà đi lẻ là chặn đánh, tiêu hủy vũ
khí quân lương, rồi lại bỏ chạy.
Nguyễn Bặc bày kế cho quân Hoa Lư tập trung, tập kích quân
lương tiếp vận của quân Lã Đường. Trong vòng 7 ngày, vòng đai phòng thủ bên
ngoài của quân Lã Đường bị tiêu diệt hoàn toàn, Đinh Liễn, Nguyễn Bặc đánh sâu
vào trung tâm, bắt được Lã Đường, chém chết, thu phục hoàn toàn đất Tế Giang.
Theo thần tích đình Thắm, làng Đan Nhiễm, thị trấn Văn Giang
thì Lã Tá Đường bị tướng Chu Công Mẫn đánh bại, Lã Tá Đường bị chém đầu, thủ cấp
bị mang về thành Hoa Lư. Chu Công Mẫn là người làng Đan Nhiễm, nên xưa dân 2
làng Phụng Công và Đan Nhiễm thường có hiềm khích với nhau.
Tuy nhiên, theo thần phả Bùi Quang Dũng ở Thái Bình viết về
một tướng nhà Đinh thì Lã Đường sau hàng phục Đinh Bộ Lĩnh. Lã Tá công cho quân
canh giữ cẩn thận ở các thành quách của mình.
Quân Tiên phong của Hoa Lư do Lưu Cơ và Bùi Quang Dũng chỉ
huy ào ạt đánh chiếm Xích Đằng. Chỉ nửa canh giờ hơn 3.000 quân của ‘Ngụy Ngô
chúa’ như hạt cát trong biển khơi, bị quân Hoa Lư tiêu diệt và bắt sống tức
thì.
Sẵn khí thế, quân Hoa Lư ‘quay giáo’ tấn công thành Tế
Giang. Thấy lực lượng mình không thể ganh đua với quân Hoa Lư được, Lã Đường đã
đem gần một vạn quân Tế Giang xin hàng quân của Đinh Bộ Lĩnh. Lã Đường được
Đinh Bộ Lĩnh phong tiếp là Lã Tá công và cho làm tướng của mình.
Khi Bộ Lĩnh tiến đánh Nguyễn Siêu ở Phù Liệt, Lã Đường đã
cùng Lã Đình Đệ, Lã Đình Kính, Lã Đình Độ, Cao Mộc Cận… đem quân đến đánh Thịnh
Liệt lập công to với Đinh Bộ Lĩnh.
Tôn vinh và thờ phụng
Đình Bến, Phụng Công, Văn Giang, Hưng Yên
Do có công cai quản và lập ấp ở địa phương, Lã Tá Đường được
lập đền thờ ở đình Bến, xã Phụng Công, Văn Giang, Hưng Yên. Người Phụng Công
thường gọi chệch từ "đường" thành "đàng" để khỏi phạm húy
và khi cúng thành hoàng làng thường có con heo không có đầu do sự tích ông bị
chém đầu. Gần đình Bến có gò Nghè cũng là nơi thờ Lã Đường.
Tượng Lã công và Lã Phu nhân ở đình Bến
Một dị bản theo Sách Bắc Ninh dư
địa chí của Ðỗ Trọng Vĩ (1829-1899), bản dịch của Ðỗ Anh Tuấn, Nhà xuất bản Văn
hoá Thông tin 1997, có sự tích Lữ sứ quân, có đền thờ ở xã Phụng Công, huyện
Văn Giang, tỉnh Bắc Ninh: ông họ Lữ tên Ðường, cuối đời Ngô, ông xưng là Lữ Tá
công, chiếm vùng Tế Giang (sau là Văn Giang). Tương truyền rằng khi vua Ðinh
Tiên Hoàng dẹp các sứ quân, ông thua bị chém đứt cổ, lấy tay giữ mà chạy. Có
một bà lão ngồi bán nước trước lối mòn đi vào vùng lau sậy. gặp hàng nước, bà hàng nước giật mình nhìn thấy một
người chạy trên lưng ngựa đầy máu. Bà lão nhìn thương cảm nói: "Người như
thế này mà sống được có là người trời". Ông đáp: "Thần thì không biết
được đâu", rồi ngã xuống đất và hóa. Bà lão thương cảm chôn ông gần gốc duối
già, sau đó vùng đất ấy cứ cao dần. Sau này người dân lập miếu thờ đặt là miếu
Thánh Lã.
Lã Tá Đường cũng được thờ tại đền Thượng, xã Mỹ Hà, Mỹ Lộc,
Nam Định nhưng thần tích ở đền thì lại cho biết ông là sứ quân quy hàng Đinh Bộ
Lĩnh và được vua ban ruộng đất ở đây cho dân thờ phụng. Rất có thể, Lã Đường đã
về lập ấp ở đây trước khi bị Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp ở Tế Giang.
Các di tích miếu Bản Thổ và đình Cự Chính ở Hà Nội cũng thờ
Lã Tá Đường cùng với cha ông là Lã Đại Liệu. Theo thần tích, Lã Đại Liệu cha
ông vốn là người võ nghệ siêu quần, được mệnh danh là đại đô vật, hô phong hoán
vũ và là bộ tướng thứ 7 của Trần Lãm dưới thời Ngô Vương, có công đánh đuổi giặc
Nam Hán.
Miếu Bản Thổ thuộc
phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Miếu Bản Thổ là nơi thờ Quốc
Vương Thiên Tử, Hiển Ứng Dực Thánh, Anh Nghị Diệu Cảm, Lã Tá Tướng Quân thời
Ngô Quyền. Ông tên thật là Lã Đại Liệu, quê ở Tế Giang, huyện Văn Lâm, Hưng
Yên. Ông vốn là người võ nghệ siêu quần, được mệnh danh là đại đô vật, hô phong
hoán vũ. Ông là bộ tướng thứ 7 của Trần Lãm dưới thời Ngô Vương, có công đánh
đuổi giặc Nam Hán, dẹp phản loạn.
Con trai Lã Tá Tướng Quân là Lã Tá Đường sau nối nghiệp cha,
trở thành một sứ quân ở Tế Giang, Hưng Yên nổi dậy thời 12 sứ quân. Hiện tại Miếu
Bản Thổ còn lưu giữ 5 đạo sắc của các triều đại phong kiến phong cho Ông.
Ông là vị thần đã âm phù nhà Đinh phạt Tống bình Chiêm, cùng
bè đảng tà loạn giúp dân lành, nhiều nơi đã lập đền thờ. Ở đầu làng Anh Sơn ( tức
Mễ Trì ngày nay), huyện Luy Lâu đã dựng miếu phụng thờ Ông.
Năm Cảnh Hưng 14 (1753), triều đình phong kiến phong cho Ông
là Hiển Ứng Dực Thánh; năm Chiêu Thống 01(1786) phong là Hiển Ứng Đại Vương;
năm Cảnh Thịnh 01 (1793) phong là Anh Nghị Đại Vương. Căn cứ vào một số di vật
còn lại như đạo sắc phong thời Lê, bát hương gốm Thổ Hà và hồi cố của một số cụ
trong Ban Khánh tiết thì bước đầu nhận định, miếu Bản Thổ được khởi dựng vào thời
Lê.
Miếu Bản Thổ, nơi hóa của sứ quân Lã Đường
Hội làng vào ngày 8 tháng Giêng tổ chức các trò chơi dân
gian như hát Quan họ, cờ người, chọi gà, biểu diễn võ…Lễ hội làng Mễ Trì nói
chung và lễ hội tại miếu Bản Thổ nói riêng là một lễ hội lớn, thu hút đông đảo
nhân dân quanh vùng tới tham dự.
Đình làng Phi Liệt là di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu trên
địa bàn xã Liên Nghĩa, Văn Giang. Nằm cách đình Bến 5 km, đình Phi Liệt cũng thờ
tướng quân Lã Đường. Tương truyền, sau khi Lã Đường mất, Vua Đinh Tiên Hoàng đã
cho phép dân làng lập đền thờ và tôn là Thạch Lã tướng quân.
Gần làng Phi Liệt là làng Phù Liệt thuộc xã Thắng Lợi, nơi
thờ 5 vị đại vương có công phù giúp Đinh Bộ Lĩnh dẹp sứ quân Lã Đường. Vua Đinh
Tiên Hoàng đã cho đổi tên làng Gềnh thành làng Phù Liệt với ý nghĩa là làng phù
quốc giúp vua và chiến đấu oanh liệt với các sứ quân còn làng ủng hộ sứ quân Lã
Đường đã được gọi là làng Phi Liệt.