Trận Bạch Đằng (chữ Hán: 白藤江之戰) năm 938 là một trận đánh mà quân dân Tĩnh Hải quân (vào thời đó, Việt Nam chưa có quốc hiệu chính thức) do Vua Ngô Quyền lãnh đạo đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng.
Kết quả trận chiến, quân tướng Việt giành thắng lợi nhờ kế
sách cắm cọc nhọn dưới lòng sông Bạch Đằng của vua Vua Ngô Quyền. Trước sự chiến
đấu dũng mãnh của người Việt, quá nửa quân Nam Hán bị chết đuối và Hoàng tử Nam
Hán là Lưu Hoằng Tháo cũng bị Vua Ngô Quyền giết chết.
Đây là một trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam, đánh
dấu cho việc chấm dứt hơn 1000 năm Bắc thuộc của Việt Nam, nối lại quốc thống
cho dân tộc Việt.
Sau chiến thắng này, Vua Ngô Quyền lên ngôi vua, tái lập đất
nước. Ông được xem là một vị "vua của các vua" trong lịch sử Việt
Nam. Đại thắng trên sông Bạch Đằng đã khắc họa mưu lược và khả năng đánh trận của
ông.
Vài nét về Nam Hán
Lực lượng xâm lược bị Vua Ngô Quyền đánh cho đại bại là quân
Nam Hán, vậy, Nam Hán là ai? Mưu đồ cụ thể của quân Nam Hán đối với nước ta lúc
bấy giờ như thế nào?
Chính sử của Trung Quốc cho hay, năm Đinh Mão (907), nhà
Lương sụp đổ, Trung Quốc lâm vào một thời kì loạn lạc, sử gọi là thời Ngũ Đại
Thập Quốc (nghĩa là năm đời mười nước). Ngũ Đại gồm: Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu
Tấn, Hậu Hán và Hậu Chu. Còn Thập Quốc thì gồm có:
- Nước Ngô do Dương Hành Mật lập nên ở vùng An Huy của Trung
Quốc ngày nay.
- Tiền Thục do Vương Kiến lập nên ở vùng Tứ Xuyên của Trung Quốc ngày nay.
- Ngô Việt do Tiền Cù lập nên ở vùng Chiết Giang của Trung Quốc ngày nay.
- Nước Sở do Mã Ân lập nên ở vùng Hồ Nam của Trung quốc ngày nay.
- Nước Mân do Vương Thẩm Tri lập nên ở vùng Phúc Kiến của Trung Quốc ngày nay
- Nam Hán do Lưu Ẩn lập nên ở vùng Quảng Đông của Trung Quốc ngày nay.
- Nam Bình do Cao Bảo Dung lập nên ở vùng Hồ Bắc của Trung Quốc ngày nay.
- Hậu Thục do Mạnh Tri Tường lập nên, cũng ở vùng Tứ Xuyên của Trung Quốc ngày
nay.
- Nam Đường do Lý Thăng lập nên ở vùng Giang Tô của Trung Quốc ngày nay.
- Bắc Hán do Lưu Sùng lập nên ở vùng Sơn Tây của Trung Quốc ngày nay.
Như vậy, trong số mười nước kể trên, Nam Hán là nước có chung đường biên giới với
nước ta, qua lại nước ta dù là bằng đường bộ hay đường biển đều thuận tiện.
Vua sáng nghiệp của Nam Hán là Lưu Ẩn (cũng tức là Lưu Nghiễm,
Lưu Yêm, Lưu Thiệp hay Lưu Cung…) vốn là kẻ kiệt hiệt. Nam Hán có tiềm lực khá
mạnh. Tháng 7 năm Canh Dần (930), vua Nam Hán từng sai tướng Lý Khắc Chính
(cũng có sách chép là Lương Khắc Chính) đem quân sang xâm lược nước ta.
Cuộc kháng chiến do Khúc Thừa Mỹ lãnh đạo bị thất bại, nước
ta bị quân Nam Hán thống trị từ cuối năm 930 đến cuối năm 931. Tháng 12 năm
931, Dương Đình Nghệ đem quân từ Ái Châu (Thanh Hóa) ra tấn công bất ngờ và dồn
dập, chúng mới phải tháo chạy vế nước.
Dương Đình Nghệ đứng đầu chính quyền độc lập và tự chủ từ cuối
năm 931 đến đầu năm 937, Nam Hán cũng từng nuôi tham vọng xâm lăng nước ta, vừa
để có thể bành trướng xuống phương Nam, vừa rửa mối nhục thất bại như đã nói ở
trên nhưng chúng chưa có cơ hội thực hiện.
Cuối năm Mậu Tuất (938) nhân được Kiều Công Tiễn cầu cứu,
Nam Hán liền quyết chí sang đánh nước ta lần thứ hai.
Bấy giờ, Nam Hán không phải là nước lớn, nhưng ta lại là một
nước nhỏ, đất đai đại để mới từ vùng Quảng Bình trở ra mà thôi. Tính chất nguy
hiểm của cuộc xâm lăng này không phải chỉ có từ phía quân Nam Hán mà còn có cả ở
phía lực lượng phản dân hại nước do Kiều Công Tiễn cầm đầu.
Vua Nam Hán tự mình soạn thảo kế hoạch, bất chấp mọi lời can
ngăn của quan lại dưới quyền. Con trai của vua Nam Hán là Vạn Vương Lưu Hoằng
Thao được cử làm tướng tổng chỉ huy quân xâm lăng. Bản thân vua Nam Hán thì điều
thêm quân ra đóng ở Hải Môn (vùng Tây Nam, huyện Bác Bạch, tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc ngay nay) để làm thanh viện.
Quần thần vẫn tiếp tục can ngăn. Vua Nam Hán bèn đến hỏi ý của
quan giữ chức Sùng Văn Sứ là Tiêu Ích. Và, Tiêu Ích đã trả lời một cách rất
khôn ngoan, vừa không làm phật lòng vua Nam Hán, vừa có thể giữ yên thân mình.
Tiêu Ích nói:
“Nay mưa dầm đã mấy tuần mà đường biển thì xa xôi và nguy hiểm, trong khi đó, Vua
Ngô Quyền lại là người kiệt hiệt, không thể nào khinh suất được. Đại quân của
ta phải tiến một cách thận trọng và chắc chắn, tốt nhất, hãy nên dùng người hướng
đạo đi trước rồi sau hãy cất quân đi”.
Nhưng vua Nam Hán vẫn không nghe theo lời khuyên của Tiêu
Ích. Tháng 12 năm Mậu Tuất (938), quân Nam Hán rầm rộ vượt biển tiến vào nước
ta qua ngả sông Bạch Đằng.
Bạch Đằng là một con sông ngắn nhưng rất rộng và sâu. Sông vốn
có tên Nôm là sông Rừng, nhưng vì sông này thường có sóng bạc nổi lên, nhân đó
mới có tên chữ là Bạch Đằng.
Cửa sông Bạch Đằng xưa nay đều có tên là cửa Nam Triệu, cũng
vì thế, con sông này còn có tên là sông Nam Triệu. Tuy nhiên, cửa Nam Triệu thời
Vua Ngô Quyền nằm ở vị trí sâu hơn, vào khoảng ngã ba của sông Cấm và sông Bạch
Đằng hiện nay.
Sở dĩ có sự khác biệt này là vì sự vận động địa chất, dẫn đến
sư biến đổi địa hình của vùng Đông Bắc nước ta trong hơn một nghìn năm qua. Từ
vùng biển Đông Bắc. Bạch Đằng là con sông tiện lợi nhất để thủy quân có thể men
theo đó mà tiến sâu vào lãnh thổ nước ta.
Trận Bạch Đằng – Đằng Giang tự cổ huyết do hồng
Cuối năm 938, để cứu nguy cho vận nước, Vua Ngô Quyền đã có
hai quyết định quan trọng. Một là nghiêm trị Kiều Công Tiễn, kẻ đã giết hại
Dương Đình Nghệ và sau đó đã cam tâm đi cầu cứu quân Nam Hán. Giết Kiều Công Tiễn
tức là tiêu diệt chỗ dựa của quân xâm lăng. Giết Kiều Công Tiễn tức là để bảo vệ
đạo lí và nghĩa khí của dân tộc. Giết Kiều Công Tiễn cũng tức là để tạo ra sự ổn
định hậu phương trước khi đại quân xuất trận. Hai là Vua Ngô Quyền đã vạch kế
hoạch đánh gục quân Nam Hán xâm lược.
Binh pháp cổ thường nhấn mạnh câu: tri bi tri kỉ bách chiến
bách thắng (biết người biết ta, trăm trận trăm thắng). Những ghi chép của sử cũ
cho thấy Vua Ngô Quyền đã biết rất rõ mưu đồ của quân Nam Hán lúc bấy giờ. Sách
Đại Việt sử kí toàn thư (ngoại kỉ, quyển 5, tờ 19-b) chép rằng:
“Vua Ngô Quyền nghe tin Hoằng Thao sắp đến, liền nói với các
tướng dưới quyền rằng:
Hoằng Thao là đứa trẻ khờ dại. Hắn đem quân từ cõi xa đến,
lính tráng đều mỏi mệt, đã thế, lại nghe tin Kiều Công Tiễn đã bị giết rồi. Mất
kẻ nội ứng, hẳn nhiên là chúng đã bị mất vía từ trước. Ta nay lấy quân khỏe mạnh
để đánh quân mỏi mệt, ắt là phải phá được.
Nhưng, bọn chúng lợi thế ở chiến thuyền, nếu ta không lo
phòng bị trước thì chưa biết sẽ ra sao. Nay, nếu ta sai người đem cọc lớn, vạt
nhọn và bịt sắt, ngầm đóng sẵn ở cửa biển, rồi nhân khi nước triều lên cao (che
khuất bãi cọc) mà dụ cho chiến thuyền của chúng tiến vào thì sau đó ắt sẽ dễ bề
chế ngự, quyết không cho chiếc nào chạy thoát”.
Xưa nay, cửa sông Bạch Đằng đều rất sâu, có chỗ sâu đến 18
mét. Độ sâu ấy, không cho phép đóng cọc theo lối giăng ngang mà chỉ có thể đóng
ở hai bên mé sông, nơi thuyền bè thường xuôi ngược. Công việc dựng bãi cọc gỗ vạt
nhọn và bịt sắt được tiến hành khẩn trương nhưng cũng rất công phu. Hàng ngàn
người được huy động đi đốn cây. Hàng trăm thợ được điều đến để bịt sắt vào cọc
gỗ. Đông đảo quân sĩ đã tham gia vào việc tạo dựng bãi cọc này.
Trước khi giao chiến với Hoằng Thao, Vua Ngô Quyền đã nghiên
cứu rất kĩ chế độ thủy văn của sông Bạch Đằng và chính phần hiểu biết quan trọng
này đã dự phần không nhỏ vào thắng lợi chung.
Sau khi hoàn tất bãi cọc gỗ, Vua Ngô Quyền đã bố trí lực lượng như sau:
- Đại binh của Vua Ngô Quyền bố trí ở ngay phía sau bãi cọc
gỗ: tất cả được mai phục sẵn trong những lùm cây mọc đầy ở ven sông.
- Phía tả ngạn sông Bạch Đằng là đạo quân do Dương Tam Kha
(con Dương Đình Nghệ, em vợ của Vua Ngô Quyền) chỉ huy.
- Phía hữu ngạn là đạo quân do Ngô Xương Ngập (con trai của Vua
Ngô Quyền) và tướng Đỗ Cảnh Thạc chỉ huy.
Vị tướng trẻ có tài bơi lội và rất thông thuộc sông nước Bạch
Đằng là Nguyễn Tất Tố được giao nhiệm vụ ra phía trước bãi cọc để khiêu chiến.
Về diễn biến của trận Bạch Đằng, sách Đại Việt sử kí toàn
thư (ngoại kỉ, quyển 5, tờ 19-b và tờ 20-a) chép như sau:
“Định xong kế sách rồi, (Vua Ngô Quyền) bèn cho đóng cọc gỗ ở
hai bên cửa sông. Khi nước triều lên, (Ngô) Quyền sai người đem thuyền nhẹ ra
khiêu chiến rồi giả thua để dụ địch đuổi theo.
Cuối tháng 11 năm 938 (trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép sự kiện này xảy ra vào "Mùa đông tháng mười", tính theo lịch dương vào khoảng tháng 11), đoàn thuyền Nam Hán vượt biển Quảng Châu, tiến dần tới cửa sông Bạch Đằng.
Chúng đi khá nhanh vì thuận gió, lại không bị lực lượng nào ngăn cản, Hoằng Thao bắt đầu chủ quan, thì lập tức phải trả giá ngay bằng một trận phục kích phủ đầu quyết liệt và hiệu quả của quân ta ở khu vực giữa đảo Cát Bà và đảo Công do Nguyễn Tất Tố chỉ huy.
Bị đòn bất ngờ, quân địch rối loạn, làm cả đội hình đang hành quân nhanh, phải khựng lại. Tuy nhiên, cậy có quân đông, thuyền lớn, bất chấp thương vong, nên địch lại lướt lên, lăn xả vào quân ta mà giáp chiến.
Nguyễn Tất Tố ở thế bất lợi phải rút lui, rồi lại mai phục sau những hòn đảo khác. Cứ như thế, thoắt ẩn, thoắt hiện, đánh phía trước, thọc bên sườn, khiến địch không thể đi nhanh, nhưng lại càng say «mồi». Đến khi nước triều đã lên cao, thuyền địch dễ dàng đi qua trên bãi cọc, cửa sông Bạch Đằng mênh mông.
Nguyễn Tất Tố mới «thật sự» tỏ ra đuối sức, rút chạy vào trong sông. Hoằng Thao cũng hoàn toàn yên tâm rằng thủy quân Ngô Quyền chỉ có thế và chớp thời cơ ngay, thúc thuyền truy đuổi. Thuận nước triều lên, lại thêm gió mùa đông bắc, thuyền địch chạy băng băng, chỉ chốc lát đã vào hết trong bãi cọc.
Lúc ấy, Nguyễn Tất Tố mới quay thuyền đánh quật lại. Lực lượng chặn đầu ở phía sau sông Chanh cũng cơ động ra đánh vỗ mặt.
Bọn Hoằng Thao quả nhiên tiến nhanh vào. Khi chiến thuyền của
chúng đã nằm hết ở trong bãi cọc thì thủy triều cũng vừa rút, khiến cho cọc nhô
dần lên. Bấy giờ, (Ngô) Quyền mới tung quân ra, ai nấy cũng đều liều chết để
chiến đấu. Lực lượng tả ngạn do Dương Tam Kha chỉ huy nhất loạt xạ kích, rồi xông ra tiến công mãnh liệt vào sườn phải, đẩy một số thuyền địch đâm vào cọc ngầm và bị mắc cạn. Tiếp đến, lực lượng ở hữu ngạn sông Bạch Đằng, hữu ngạn sông Cấm do Nguyễn Cảnh Thạc, Ngô Xương Ngập chỉ huy cũng nhất tề xông ra đánh vào sườn trái quân địch.
Những đội thuyền nhẹ của dân binh theo các con kênh từ hai bên bờ sông Bạch Đằng, cũng xông ra cận chiến, phối hợp cùng lực lượng chủ lực băm nát đội quân chủ lực của Lưu Hoằng Thao.
Đội hình địch tan tác, nhiều thuyền bị vỡ, bị đắm, tướng sĩ hoảng loạn, phần bị giết, phần chết đuối, phần lớn quân Nam Hán bị tiêu diệt trong đó có cả chủ tướng Hoằng Thao.
Nước triều rút quá nhanh, quân Hoằng Thao trở thuyền không kịp
nên đều vướng cọc mà lật úp. Lũ giặt rối loạn rồi tan vỡ, quân lính chúng bị chết
đuối đến hơn một nửa. (Ngô) Quyền thừa thắng đánh đuổi rất gấp, bắt được Hoằng
Thao, đem giết đi.
Vua Nam Hán (đóng ở Hải Môn, nghe tin dữ) liền thương khóc,
thu nhặt tàn quân (của Hoằng Thao tháo chạy đến) và rút về. Vua Nam Hán cho rằng,
tên mình là Lưu Cung thật đáng ghét lắm vậy”.
Danh thơm còn mãi với thiên thu
Trận Bạch Đằng năm 938 là một trong những trận thủy chiến xuất
sắc của lịch sử nước nhà. Với chiến thắng này, Vua Ngô Quyền đè bẹp hoàn toàn
tham vọng bành trướng xuống phương Nam của Nam Hán, khẳng định một cách hiên
ngang kỉ nguyên độc lập và tự chủ của nước nhà.
Với chiến thắng này, Vua Ngô Quyền thực sự trở thành một anh
hùng dân tộc, một thiên tài quân sự của nước nhà. Vua Ngô Quyền đã để lại cho hậu
thế những kinh nghiệm vô giá trong tổ chức và chỉ huy thủy chiến.
Ông là người đầu tiên dùng bãi cọc và cũng là người đầu tiên
biết tận dụng thủy triều vào trận chiến. Trận Bạch Đằng năm 938 là một trong những
trận mẫu mực của hợp đồng tác chiến giữa thủy binh với bộ binh, cũng là một
trong những trận mẫu mực của sự kết hợp hài hòa giữa mai phục với tấn công tiêu
diệt.
Từ trận Bạch Đằng, tên tuổi và sự nghiệp của Vua Ngô Quyền
chói sáng trong sử sách và trong kí ức bất diệt của các thế hệ nhân dân ta.
Trong Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sĩ (1726 - 1780) viết:
“Nếu không có trận đại thắng này thì nhuệ khí của bọn Lưu
Nghiễm vẫn còn, và cái cơ bị ngoại thuộc lại dần dần nổi lên. Cho nên, trận Bạch
Đằng chính là gốc rễ của sự khôi phục quốc thống. Sau này, các đời Đinh, Lê,
Lý, Trần... cũng được nhờ ở dư âm của sự oanh liệt ấy. Võ công hiển hách của Vua
Ngô Quyền, thực sự là để tiếng thơm đến muôn đời chứ đâu phải chỉ sáng rỡ trong
nhất thời đâu”.
Dấu tích bãi cọc Bạch Đằng tại huyện Yên Hưng, Quảng Ninh.
Sau thất bại thảm hại ở Bạch Đằng, nước Nam Hán vẫn tiếp tục tồn tại và phát
triển thêm một thời gian nữa, nhưng trong suốt thời gian đó, chúng không dám
bén mảng đến nước ta. Nhận xét về thực trạng của Nam Hán lúc bấy giờ, sử thần
Ngô Sĩ Liên viết:
“Lưu Cung tham đất của người muốn mở rộng bờ cõi, nhưng đất
không lấy được mà lại để mất đứa con của mình, đã thế, còn gây hại cho dân. Mạnh
Tử nói “đem cái mình chẳng yêu mà hại cái mình yêu”, đại để là như thế này
chăng?”.
“Tiền Ngô Vương có thể
lấy quân mới họp của nước Việt ta mà đánh tan được trăm vạn quân của Lưu Hoằng
Tháo, mở nước xưng vương, làm cho người phương Bắc không dám lại sang nữa. Có
thể nói là một lần nổi giận mà yên được dân, mưu giỏi mà đánh cũng giỏi vậy.
Tuy chỉ xưng vương, chưa lên ngôi đế, đổi niên hiệu, nhưng chính thống của nước
Việt ta, ngõ hầu đã nối lại được. ”- Ngô
Sĩ Liên
“Vua Ngô Quyền trong thì giết được nghịch thần, báo thù cho
chủ, ngoài thì phá được cường địch, bảo toàn cho nước, thật là một người trung
nghĩa lưu danh thiên cổ, mà cũng nhờ có Vua Ngô Quyền, nước Nam ta mới cởi được
ách Bắc thuộc hơn một nghìn năm, và mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần về sau này
được tự chủ ở cõi Nam vậy.”— Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim
Trận thắng lớn ở sông Bạch Đằng năm 938 có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với lịch sử Việt Nam, nó đã giúp chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc
trong lịch sử Việt Nam, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ cho Việt Nam.
Chiến thắng Bạch Đằng có thể coi là trận kết thúc toàn thắng
của dân tộc Việt Nam trên con đường đấu tranh chống Bắc thuộc, chống đồng hóa,
đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Phải đặt trong bối cảnh Bắc thuộc kéo dài
sau 1117 năm (179 TCN - 938) mới thấy hết ý nghĩa lịch sử vĩ đại của nó.
Hơn thế nữa, trong hơn 1000 năm Bắc thuộc đó, kẻ thù của dân
tộc Việt là một đế quốc lớn mạnh bậc nhất ở phương Đông với chủ nghĩa bành trướng
Đại Hán đang lúc phát triển cao độ, nhất là dưới thời Hán, Đường. Tiếp tục công cuộc bành trướng của Tần Thủy Hoàng, nhà Hán đã
chinh phục miền Bắc xứ Triều Tiên chiếm đất đai các bộ lạc du mục phía Bắc, mở
rộng lãnh thổ về phía Trung Á, xâm lược các nước Hạ Lang, Điền ở Tây Nam.
Đầu thế kỷ thứ 7, nhà Tùy bành trướng mạnh về phía Đông,
chinh phục Triều Tiên, Lưu Cầu (Đài Loan), Giao Châu, Lâm Ấp, Tây Đồ Quốc...,
nhà Đường mở rộng bành trướng về mọi phía, lập thành một đế chế bao la như Đường
Thái Tông đã từng tuyên bố: "Ta đã chinh phục được hơn 200 vương quốc, dẹp
yên bốn bề, bọn Di Man ở cõi xa cũng lần lượt về quy phục" (theo Đường
thư).
Từ đầu Công nguyên, dân số của đế chế Hán đã lên đến 57 triệu
người. Thời gian đó, dân số của Việt Nam chỉ độ một triệu. Sau khi chiếm được
Việt Nam, mưu đồ của nhà Hán không phải chỉ dừng lại ở chỗ thủ tiêu chủ quyền
quốc gia, bóc lột nhân dân, vơ vét của cả, mà còn tiến tới đồng hóa vĩnh viễn
dân tộc Việt, sáp nhập đất đai vào Trung Quốc.
Chính sách đồng hóa
là một đặc trưng nổi bật của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, đã được thực hiện từ
thời Hán và đẩy mạnh tới nhà Đường. Trong toàn bộ tiến trình lịch sử Việt Nam,
đây là một trong những thời kỳ vận mạng dân tộc trải qua một thử thách cực kỳ
hiểm nghèo.
Vua Ngô Quyền - người anh hùng của chiến thắng oanh liệt
trên sông Bạch Đằng năm 938 - trở thành vị vua có "công tái tạo, vua của
các vua" theo như nhận định của Đại Việt Sử ký Toàn thư. Ông xứng đáng với
danh hiệu là "vị Tổ Trung hưng" của dân tộc như nhà yêu nước Phan Bội
Châu lần đầu tiên đã nêu lên trong Việt Nam quốc sử khảo.
Sau chiến thắng Bạch Đằng, Việt Nam bước vào thời kỳ xây dựng
đất nước trên quy mô lớn. Đó là kỷ nguyên của văn minh Đại Việt, của văn hóa
Thăng Long, kỷ nguyên phá Tống, bình Nguyên, đuổi Minh, một kỷ nguyên rực rỡ của
các triều đại Lý, Trần, Lê.
Nhà sử học Ngô Thì Sĩ đánh giá:
“Trận thắng trên sông
Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh,
Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng vũ
công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng ở một thời bấy giờ mà
thôi đâu” Việt sử tiêu án - Ngô Thì Sĩ.