Triều đại Tiền Lê trị vì đất nước ta trong 29 năm, trải qua 3 đời vua Lê Đại Hành (980-1005); Lê Trung Tông (1005); Lê Long Đĩnh (1005-1009). Chiến công dựng nước của vua Đinh Tiên Hoàng, giữ nước của vua Lê Đại Hành được kế tục bởi vua Lý Công Uẩn.
Nhà Lê (chữ Nôm: 茹黎, chữ Hán: 黎朝,
Hán Việt: Lê triều), hay còn được gọi là nhà Tiền Lê (chữ Nôm: 家前黎,
Chữ Hán: 前黎朝, Hán Việt: Tiền Lê triều) là một triều đại quân
chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Đinh Phế Đế nhường ngôi cho Lê Hoàn vào
năm 980, trải qua ba đời quân chủ và chấm dứt khi Lê Long Đĩnh qua đời. Quốc hiệu
vẫn là Đại Cồ Việt. Triều đại này được kế tục bởi nhà Lý, được sáng lập bởi Lý
Công Uẩn.
Nhà Tiền Lê trị vì đất nước ta trong 29 năm, trải qua 3 đời
vua, bao gồm:
- Lê Đại Hành
(980-1005)
- Lê Trung Tông
(1005)
- Lê Long Đĩnh
(1005-1009)
Thành lập triều Tiền Lê
Châu Á vào giữa thế kỷ thứ 9 đến hết thế kỷ thứ 10, với lãnh
thổ Đại Cồ Việt (màu vàng).
Sau khi Đinh Tiên Hoàng và con là Đinh Liễn bị ám hại, Vệ
Vương Toàn lên ngôi, Lê Hoàn làm phụ chính, xưng là Phó vương. Triều thần sợ Lê
Hoàn cướp ngôi vị của Thiếu đế, nên các công thần là Định Quốc công Nguyễn Bặc
và Ngoại giáp Đinh Điền dẫn quân về kinh đô định giết Lê Hoàn. Lực lượng này
thua trận và bị Lê Hoàn giết.
Năm 980, quân Tống nhân cơ hội đem quân sang muốn cướp nước.
Khi triều đình đang bàn kế hoạch xuất quân thì Phạm Cự Lạng cùng các tướng quân
khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người: "Thưởng người
có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng
còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút
công lao, thì có ai biết cho ? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm
Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn". Quân sĩ đều hô vạn tuế.
Lúc đó, người đứng đầu triều đình là Dương Thái hậu không
còn cách nào khác do mọi quân sĩ đều tôn lập Thập đạo tướng quân Lê Hoàn, bèn
thuận theo, sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, đưa Lê Hoàn lên làm
Hoàng đế. Đây chính là thời khắc lập ra nhà Tiền Lê. Vua Lê Ðại Hành
(980-1005): Niên hiệu: Thiên Phúc (980-988); Hưng Thống (989-993); Ứng
Thiên (994-1005).
Trị vì đất nước
Sau khi lên ngôi, Lê Hoàn tiến hành chuẩn bị chống lại nhà Tống
trong Chiến tranh Tống–Việt năm 981, với chiến thắng thuộc về Lê Hoàn. Sau chiến
thắng, Lê Hoàn liền sai sứ sang nhà Tống cống các đồ thổ sản và dâng biểu tạ lỗi
nhằm giữ mối quan hệ hòa hảo không đáng đánh mất giữa Việt và Tống, đồng thời
cũng thảo phạt Chiêm Thành đang rất mạnh ở phía Nam.
Ngay sau bàn định ngoại trị, vua Lê Hoàn vì muốn ổn định
chính trị bên trong, đã phong Dương Thái hậu làm một trong các Hoàng hậu của
mình. Theo quan điểm Nho giáo của các nhà chép sử sau này, như trong Đại Việt sử
ký toàn thư đã viết, thì ông bị chê trách về đạo vợ chồng do ông đã lập Dương
Thái hậu làm Hoàng hậu của mình.
Tuy nhiên, điều đó cũng không cản trở ông có nhiều thành tựu
xây dựng quốc gia, cũng như chứng minh được tài trị vì của mình. Trong khi cai
trị, ông đã cho xây dựng nhiều công trình, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và thủ
công nghiệp để chấn hưng nền kinh tế.
Ông là vị Hoàng đế trong lịch sử mở đầu cho lễ tịch điền nhằm
khuyến khích sản xuất nông nghiệp dưới chế độ phong kiến Việt Nam. Mở đầu cho một
lễ nghi trọng đại mà các vương triều sau tiếp tục noi theo để khuyến khích phát
triển sản xuất nông nghiệp.
Vì vậy, trong thời gian ông trị vì, tôn hiệu của ông được quần
thần dâng tôn là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí Nhân Quảng Hiếu Hoàng
đế.
Lê Hoàn là một vị Hoàng đế có rất nhiều con trai. Con trưởng
của ông là Lê Long Thâu đã được chọn làm người kế vị từ những năm đầu tiên khi
ông lên ngôi, nhưng lại đột ngột qua đời sớm vào năm 1000, để lại ngôi vị Thái
tử bỏ ngỏ.
Vào lúc này, người con thứ năm của ông là Khai Minh vương Lê
Long Đĩnh tự ứng cử mình làm Thái tử. Theo ghi nhận của Đại Việt Sử ký Toàn
thư, Lê Hoàn rất thích Long Đĩnh và tính chọn làm Trữ quân, nhưng bị các đại thần
thân cận ngăn lại vì nhiều người con lớn và tài ba hơn Long Đĩnh, trong đó có Lê
Long Tích, giữ tước vị Đông Thành vương và là con trưởng nhất lúc đó của ông
sau khi Lê Long Thâu qua đời.
Vua Lê Hoàn bỏ ý định lập Long Đĩnh làm Thái tử, nhưng cũng
không chọn trưởng tử Long Tích, mà chọn người anh cùng mẹ của Long Đĩnh là Nam
Phong vương Lê Long Việt.
Năm 1005, vua Lê Hoàn sau 24 năm trị vì hóa tại Trường Xuân
điện.
Ngay lập tức, các hoàng tử Khai Minh vương Lê Long Đĩnh,
Đông Thành vương Lê Long Tích, Trung Quốc vương Lê Long Kính tranh vị với Thái
tử Lê Long Việt. Trong nước 8 tháng không có ai làm chủ.
Đầu năm 1006 (mùa đông năm 1005 âm lịch), Đông Thành vương
Lê Long Tích bị Thái tử Long Việt đánh bại, chạy đến châu Thạch Hà (Hà Tĩnh)
thì bị người bản địa giết chết. Vài tháng sau, Lê Long Việt thuận lợi lên ngôi
Hoàng đế. Sử gọi là Lê Trung Tông.
Trước thắng lợi của Lê Long Việt, các hoàng tử khác tạm thời
án binh bất động. Tuy nhiên, Lê Long Việt lên ngôi được ba ngày thì bị em cùng
mẹ là Khai Minh vương Lê Long Đĩnh giết chết lên thay.
Vua Lê Long Đĩnh lên ngôi, tôn hiệu Khai Thiên Ứng Vận Thánh
Văn Thần Vũ Tắc Thiên Sùng Đạo Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế. Long Ðĩnh
làm vua được 2 năm đổi Niên hiệu là Cảnh Thuỵ. Năm sau (1009) thì mất, làm vua
đựoc 4 năm, thọ 24 tuổi. Long Ðĩnh mất, con tên là Sạ còn bé, đình thần nhân dịp
tôn Lý Công Uẩn lên làm vua khởi dựng sự nghiệp triều Lý hiển hách. Như vậy nhà
Tiền Lê tồn tại trong 29 năm, trải qua 3 đời vua
Vua Lê Long Đĩnh trị vì
Là một người có nhiều quân công, Lê Long Đĩnh liền sau đó hiểu
rằng ông phải đích thân đi dẹp các hoàng tử khác thì mới mong có được sự trị vì
vững chắc và yên ổn.
Khi đó, Ngự Bắc vương Lê Long Cân và Trung Quốc vương Lê
Long Kính chiếm trại Phù Lan để làm phản. Lê Long Đĩnh thân đi đánh, khiến Ngự
Bắc vương Long Cân phải bắt Trung Quốc vương Long Kính đem nộp và xin đại xá.
Long Đĩnh tha cho Long Cân, còn Long Kính bị xử tử.
Ngự Man vương Lê Long Đinh do khiếp sợ cũng đầu hàng. Từ đấy
về sau các vương và giặc cướp đều hàng phục cả.
Sau đó, Lê Long Đĩnh đã củng cố ngoại giao bằng những chính
sách rất mềm dẻo đối với nhà Tống. Ông rất chuộng Phật giáo, bằng việc xin thỉnh
kinh Đại Tạng về. Trong "Việt Nam Phật giáo sử lược", thiền sư Thích
Mật Thể viết: "Niên hiệu Ứng Thiên thứ 14 (1008), sau khi nước ta đã hòa với
Tống rồi, vua Đại Hành sắc ông Minh Xưởng và ông Hoàng Thành Nhã sang sứ nước
Trung Hoa, cống hiến đồ thổ sản và xin vua Tống ban cho bộ "Cửu kinh"
và "Đại Tạng kinh".
Vua Tống trao cho những bộ ấy và cho sứ giả đưa về. Đó là lần
đầu tiên nước ta cho người sang cầu kinh bên Trung Hoa vậy". Cửu kinh gồm:
Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh
Tử và Chu Lễ; là 9 bộ sách nền tảng của văn minh Trung Hoa lần đầu tiên nhập
vào Việt Nam là do Lê Long Đĩnh lấy về.
Còn kinh Đại Tạng là một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ
các cao tăng Trung Hoa sưu tầm và dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất
đến cuối thế kỷ thứ 10 mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển.
Ngoài ra, ông cũng chăm lo kinh tế bằng cách cho xây đắp các
tuyến đường lớn, những con đường thủy bộ cho vững chắc để tiện việc giao
thương. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1009, Lê Long Đĩnh lại xin được đặt
người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu thuộc Trung Hoa, nhưng Tống
đế chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng, là
những nơi giáp vùng biên giới thôi.
Theo An Nam chí lược, vua Tống cho rằng Giao Chỉ thường cướp
phá vùng bờ biển nước Tống, nay cho buôn bán ở Ung Châu không tiện, cứ theo lệ
cũ là trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng.
Vua Lê Long Đĩnh trong 4 năm cầm quyền đã 5 lần cầm quân
đánh dẹp (ở các vùng đất thuộc Hưng Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ
An, Hà Tĩnh ngày nay), vì nhà nước Đại Cồ Việt vẫn là nhà nước mới và vẫn chưa
thực sự mạnh để các nơi tuân phục, điều này tiếp diễn nhiều năm trong thời kỳ đầu
của nhà Lý.
Sự hình thành triều đại nhà Lý
Vào những năm cuối đời, sách sử đa số nhận định rằng Lê Long
Đĩnh là một hôn quân.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư nói, vua Lê Ngọa Triều tính hiếu
sát thường thiêu sống, dìm nước hay dùng dao cùn mà tùng xẻo tù nhân; sư sãi vốn
có thế lực rất lớn đối với chính sự nhưng Ngọa Triều từng sai người róc mía
trên đầu sư Quách Ngang để làm trò cười; lại nuôi nhiều bọn hề làm trò khôi hài
trong triều để làm loạn lời tâu việc của các quan.
Do những việc làm đó, Ngọa Triều bị quan lại và dân chúng
căm ghét. Sử cũng chép rằng, vì chơi bời sa đọa, nên vua Lê Long Đĩnh bị bệnh
trĩ không ngồi được, phải nằm mà coi chầu, nên được gọi là Lê Ngọa Triều.
Tuy nhiên, nhiều nhận định chơi bời sa đọa không phải là
nguyên nhân sinh ra bệnh trĩ, mà có thể và Lê Long Đĩnh bị suy nhược bởi nhiều
nguyên nhân nào đó. Vào lúc này, vị vua họ Lê suy nhược đang không biết có một
người mình tin cậy lại là người có khả năng thay thế mình. Chính là vị trưởng
quản lính thân vệ Lý Công Uẩn.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư – Lê Ngọa Triều bản kỷ:
Lúc đó, ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp, có cây gạo bị sét
đánh, người hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: "Thụ căn điểu điểu,
mộc biểu thanh thanh, hòa đao mộc lạc, thập bát tử thành, đông a nhập địa, mộc
dị tái sinh, chấn cung kiến nhật, đoài cung ẩn tinh, lục thất niên gian, thiên
hạ thái bình". (Dịch nghĩa: Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây hòa
đao rụng, mười tám hạt thành, cành đông xuống đất, cây khác lại sinh, đông mặt
trời mọc, tây sao náu hình, khoảng sáu bảy năm, thiên hạ thái bình).
Sư Vạn Hạnh, một nhà sư có địa vị khi ấy tự đoán riêng rằng:
"Thụ căn điểu điểu", chữ căn nghĩa là gốc, gốc tức là vua, chữ điểu đồng
âm với yểu, nên hiểu là yếu; "Mộc biểu thanh thanh", chữ biểu nghĩa
là ngọn, ngọn tức là bề tôi, chữ thanh âm gần giống với chữ thanh nghĩa là thịnh;
Hòa, đao, mộc [ghép lại] là chữ Lê; Thập, bát, tử [ghép lại] là chữ Lý; Đông A
là chữ Trần, nhập địa là phương Bắc vào cướp; "Mộc dị tái sinh" là họ
Lê khác lại sinh ra; "Chấn cung kiến nhật", chấn là phương Đông, kiến
là mọc ra, nhật là thiên tử; "Đoài cung ẩn tinh", đoài là phương Tây,
ẩn cũng như lặn, tinh là thứ nhân.
Mấy câu này ý nói là vua thì non yểu, bề tôi thì cường thịnh,
họ Lê mất, họ Lý nổi lên, thiên tử ở phương Đông mọc ra thì thứ nhân ở phương
Tây lặn mất, trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình.
Sư Vạn Hạnh mới bảo Thân vệ Phó tướng Lý Công Uẩn rằng:
"Mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên
cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng
Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền
trong tay, đứng đầu muôn dân chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa. Tôi
đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức hóa của ông như thế
nào, thực là cái may nghìn năm có một".
Lý Công Uẩn sợ câu nói ấy bị tiết lộ, bảo người anh đem sư Vạn
Hạnh giấu ở Tiêu Sơn. Song từ ấy cũng lấy thế tự phụ mới nảy ra lòng nhòm ngó
ngôi vua, mà người ta cũng quy phụ.
Tương truyền, khi vua Lê Long Việt bị giết, triều đình phải
bỏ chạy, không ai dám đến gần xác vị Hoàng đế trẻ, duy chỉ có Lý Công Uẩn là ôm
đến gào khóc, Lê Long Đĩnh vì ấn tượng hành động này, về sau cất nhắc Lý Công Uẩn
nhiều chức vụ quan trọng thân cận. Có lần, Lê Long Đĩnh ăn quả khế lại thấy hột
mận (chữ Lý nghĩa là mận), mới tin lời sấm ngữ, ngầm tìm người họ Lý giết đi,
thế mà Lý Công Uẩn ở ngay bên cạnh lại không hề bị nghi ngờ.
Năm 1009, vua Lê Long Đĩnh qua đời lúc mới 24 tuổi, ở ngôi 4
năm. Nhân các con của Long Đĩnh còn bé, Điện tiền Lý Công Uẩn cùng Hữu điện tiền
chỉ huy sứ là Nguyễn Đê mỗi người được đem 500 quân Tùy Long vào làm Túc vệ.
Chi hậu là Đào Cam Mộc dò biết Công Uẩn có muốn nhận việc truyền ngôi, mới nhân
lúc vắng nói khích rằng:"Gần đây chúa thượng ngu tối bạo ngược, làm nhiều
việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu, không
kham nỗi nhiều khó khăn.
Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nhao
nhác, mong tìm chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết
đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh, Lê, trên
thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ muốn khư khư giữ tiểu tiết làm
gì!"
(Vua) Lý Công Uẩn trong lòng thích lời nói đó nhưng còn ngờ
Cam Mộc có mưu khác, mới giả cách mắng rằng: "Sao ông lại nói như thế, tôi
phải bắt ông nộp quan!" Đào Cam Mộc thong thả bảo Công Uẩn rằng: "Tôi
thấy thiên thời nhân sự như thế, cho nên mới dám phát ngôn. Nay ông lại muốn
cáo giác tôi thì tôi không phải là người sợ chết". Công Uẩn nói: "Tôi
đâu nỡ cáo giác ông, chỉ sợ lời nói tiết lộ thì chết ráo, nên răn ông đó
thôi".
Hôm sau, Đào Cam Mộc lại bảo (vua) Lý Công Uẩn: "Người
trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi, đó là cái
họa không thể che giấu được nữa. Chuyển họa làm phúc, chỉ trong sớm chiều. Đây
là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn nghi ngại gì nữa?". (vua) Công Uẩn nói:"Tôi đã hiểu rõ ý ông,
không khác gì ý của Vạn Hạnh, nếu thực như lời ấy thì nên tính kế thế
nào?".
Cam Mộc nói:"Thân vệ là người khoan thứ, nhân từ, lòng
người chịu theo. Hiện nay trăm họ mỏi mệt kiệt quệ, dân không chịu nổi, Thân vệ
nên nhân đó lấy ân đức mà vỗ về, thì người ta tất xô nhau kéo về như nước chảy
chỗ thấp, có ai ngăn được!"
Đào Cam Mộc biết việc cần kíp, sợ sinh biến, mới nói chuyện
với khanh sĩ và các quan, ai cũng vui theo. Ngay ngày hôm ấy, đều họp cả ở
trong triều, bàn rằng:"Hiện nay, dân chúng ức triệu khác lòng, trên dưới
lìa bỏ, mọi người chán ghét tiên đế hà khắc bạo ngược, không muốn theo về vua nối
mà đều có lòng suy tôn quan Thân vệ, bọn ta không nhân lúc này cùng nhau sách lập
Thân vệ làm thiên tử, lỡ bối rối có xảy ra tai biến gì, liệu chúng ta có giữ được
cái đầu hay không?"
Thế rồi cùng nhau dìu Công Uẩn lên chính điện, lập làm thiên
tử, lên ngôi Hoàng đế. Trăm quan đều lạy rạp dưới sân, trong ngoài đều hô
"vạn tuế", vang dậy cả trong triều. Đại xá cho thiên hạ, lấy năm sau
làm niên hiệu Thuận Thiên năm đầu. Đốt giềng lưới, bãi ngục tụng, xuống chiếu từ
nay ai có việc tranh kiện cho đến triều tâu bày, vua thân xét quyết. Vua Lý
Công Uẩn lên ngôi trị quốc
Bộ máy chính quyền
Nhà Tiền Lê nối tiếp và hầu như giữ nguyên mọi quy củ của
nhà Đinh. Năm 980, sau khi lên ngôi, Lê Hoàn đặt chức quan trong triều, phong Hồng
Hiến làm Thái sư, Phạm Cự Lạng làm Thái úy, Từ Mục làm Đại tổng quản, Đinh Thừa
Chinh làm Nha nội đô Chỉ huy sứ.
So với nhà Đinh tập trung hết quyền hành về tay hoàng đế,
vua Lê đã chia trách nhiệm cho các đại thần. Chỉ riêng việc đánh dẹp thì nhà
vua thường thân chinh cầm quân.
Đánh dẹp trong nước
Trong thời gian cai trị, các vua Tiền Lê vẫn gặp phải sự chống
đối của các tù trưởng địa phương, nhất là những nơi xa xôi hẻo lánh.
Năm 989, vua Lê Đại Hành sai viên Quảng giáp là Dương Tiến Lộc
đi thu thuế hai châu Hoan và Ái. Tiến Lộc đem người hai châu ấy xin theo về với
Chiêm Thành. Chiêm Thành không nhận. Dương Tiến Lộc lấy hai châu Hoan, Ái làm
phản. Vua Lê Đại Hành thân hành đi đánh, giết chết Tiến Lộc và rất nhiều người
2 châu đó.
Năm 999, vau Lê Đại Hành lại thân cầm quân đi đánh Hà Động,
dẹp được tất cả 49 động. Sau đó vua Lê lại phá được động Nhật Tắc, châu Định
Biên (Cao Bằng).
Người Cử Long làm loạn không phục triều đình. Năm 1001, vua
Lê Đại Hành lại thân chinh đi đẹp được loạn.
Sang thời Ngọa Triều vẫn phải đối phó với sự chống đối của
các địa phương. Năm 1008, Vua Lê Long Đĩnh thân hành đi đánh hai châu Đô Lương,
Vị Long, bắt được vài trăm người bản địa. Cùng năm, vua Lê lại đi đánh châu
Hoan và châu Thiên Liễu, bắt được tù binh về giết. Tháng 7 năm 1009, Lê Long
Đĩnh lại thân đi đánh các châu Hoan Đường, Thạch Hà.
Mở đường giao thông
Sau khi đánh thắng Chiêm Thành, năm 983, vua Lê Đại Hành sai
quan Phụ quốc Ngô Tử An đem 3 vạn người đi mở đường bộ từ cửa biển Nam Giới đến
châu Địa Lý.
Năm 1003, vua Lê lại thân hành đi Hoan Châu, ra lệnh vét
kênh Đa Cái cho thông thẳng đến Tư Củng trường ở Ám châu.
Năm 1009, triều thần đề nghị xin đào kênh, đắp đường và dựng
cột bia ở Ái Châu. Vua Lê Ngọa Triều xuống chiếu cho lấy quân và dân ở châu Ái
đào đắp từ cửa quan Chi Long qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lung. Sau đó vua Lê Long
Đĩnh lại ra lệnh đóng thuyền để ở các bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ, Động Lung bốn
chỗ để chở người qua lại.
Tháng 7 năm đó, nhân đi đánh châu Hoan Đường, hành quân đến
Hoàn Giang, Lê Long Đĩnh sai Hồ Thủ Ích đem hơn 5000 quân của châu Hoan Đường,
sửa chữa đường từ sông Châu Giáp đến cửa biển Nam Giới để tiện cho việc hành
quân về phía nam.
Phát triển kinh tế
Nhà Lê đặt các loại thuế
Nhà Tiền Lê đặt ra lệ đánh thuế căn cứ vào số lượng tài sản
về ruộng đất. Thuế thân chia ra hai loại:
Tiền công dung là tiền công dịch (như lao động công ích) mà
người dân phải chịu mỗi năm 10 ngày và có thể nộp tiền thay vào việc tạp dịch.
Tiền thuế hộ: là tiền mỗi gia đình phải nộp hàng năm.
Tiền thuế điệu: Tiền mỗi hộ phải nộp để đóng vào việc quân.
Nhà Tiền Lê đặt ra thuế thổ sản theo phép thời Tam Đại (Hạ,
Thương, Chu) của Trung Quốc, chỉ lấy cống phẩm mà không thu bằng tiền. Đồng thời,
triều đình có chính sách khuyến khích thương mại. Những người buôn bán không phải
nộp thuế, coi như họ chỉ bán những nông phẩm sản xuất ra mà đã chịu thuế ruộng
đất rồi.
Nông nghiệp
Nhà Tiền Lê xem trọng nông nghiệp. Vào đầu xuân năm 987, vua
Lê Đại Hành đã thực hiện lễ cấy Tịch điền để động viên, khuyến khích nhân dân sản
xuất nông nghiệp. Đó là lễ Tịch điền đầu tiên mà một vị vua Việt Nam thân hành
đi cày và được sử sách ghi nhận lại.
Thương mại
Sử sách không chép rõ về hoạt động thương mại trong nước. Đối
tác quan hệ buôn bán ngoại thương chủ yếu của Đại Cồ Việt là Trung Quốc. Hai
bên lập ra những nơi giao dịch song phương gọi là Bạc dịch trường đặt trên đường
thông lộ biên giới.
Những Bạc dịch trường quan trọng trong thời kỳ này là trại
Vĩnh Bình (được Lê Văn Siêu phỏng đoán là chợ Kỳ Lâm hiện nay) tại Sách Nam
Giang thuộc trại Cổ Vạn và châu Tô Hậu (Lê Văn Siêu phỏng đoán là châu Thất Khê),
trại Hoành Sơn (Na Chàm ở ải Nam Quan[8]). Trại Hoành Sơn tụ tập nhiều nhà buôn
từ châu Quảng Nguyên của Đại Cồ Việt và châu Đặc Ma của nước Đại Lý (Vân Nam)
và các lái buôn từ Quảng Châu của nhà Tống.
Bạc dịch trường lớn nhất gần biên giới là điểm giao dịch hai
nước nằm ở trại Như Hồng, Khâm châu.
Tác giả Chu Khứ Phi mô tả việc buôn bán giữa hai bên lúc đó
trong sách Lĩnh ngoại đại pháp như sau:
Hai bên gặp nhau thường uống rượu làm vui rồi mới bàn chuyện
buôn bán. Người Tống làm nhà ở tại chỗ lâu ngày và thường dìm giá làm người bán
phải bán rẻ; nhưng phú thương người Việt cũng không chịu, cầm giữ giá lâu.
Các quan chức địa phương biên giới cũng hỗ trợ cho quan hệ
buôn bán của các thương gia hai bên. Nếu xảy ra việc kêu ca vì người bán cân
thiếu thì phía Đại Cồ Việt lại cử sứ sang Khâm châu để thử lại cân để kiểm tra.
Không những thế, chính triều đình nhà Tiền Lê cũng sai người sang giao dịch thẳng
với khách buôn người Tống. Hàng bán của Đại Cồ Việt gồm có vàng, bạc, tiền đồng.
Lê Văn Siêu cho rằng đây không chỉ là thị trường hàng hóa mà còn là thị trường
tiền tệ mà hai bên trao đổi ngoại hối.
Văn hóa
Sử sách không ghi chép nhiều về những dấu ấn văn hóa thời Tiền
Lê. Ảnh hưởng lớn nhất trong các tôn giáo là đạo Phật đã có từ thời thuộc Đường.
Các nhà sư đã được sự tin cậy của hoàng đế, cho làm quan trong triều để bàn kế
sách quốc gia.
Sử sách ghi lại hai tác phẩm tiêu biểu thời kỳ này là bài
thơ của nhà sư Đỗ Pháp Thuận đối đáp với sứ Tống và bài từ khúc của sư Khuông
Việt tiễn sứ Tống ra về năm 987. Lê Quý Đôn có lời ca ngợi hai ông: "Sư
Thuận thơ ca làm sứ Tống kinh sợ, Chân Lưu có từ khúc vang danh một thời".
Đối ngoại
Với Trung Quốc
Thực hiện chính sách "thuần phục giả độc lập thật",
về cơ bản quan hệ ngoại giao giữa nhà Tiền Lê với nhà Tống có nhiều thuận lợi.
Nhà Tống tỏ ra dè dặt, mềm dẻo với các vua Lê vì luôn phải đối phó với nguy cơ
từ người Khiết Đan ở phía bắc.
Sau thất bại năm 981, vua Tống bằng lòng công nhận Lê Hoàn,
phong ông làm Tiết độ sứ và không hỏi tới dòng dõi nhà Đinh nữa.
Năm 986 và 987, Tống Thái Tông sai Lý Giác đi sứ sang Đại Cồ
Việt. Trong lần đi sứ năm 987, Lý Giác làm thơ tiễn có câu: "Thiên ngoại hữu
thiên ưng viễn chiếu", nghĩa là: Ngoài trời lại có trời soi nữa. Sư Khuông
Việt nói rằng thơ này có ý tôn Lê Hoàn không khác gì vua Tống.
Năm 990, nhà Tống lại cử Tống Cảo đi sứ Đại Cồ Việt lần nữa.
Lê Văn Siêu bình luận điều này cho rằng: thượng quốc ít khi chịu mất công vì nước
nhỏ như vậy, vì nhà Tống trong thời kỳ giao tranh với nước Liêu năm 986 và bộ lạc
Thảng Cốt năm 990.
Khi sứ Tống là Tống Cảo sang phong chức, Lê Hoàn nhận tờ chiếu
của vua Tống mà không chịu quỳ, nói thác rằng bị ngã ngựa đau chân. Lúc đó sứ Tống
im lặng không thắc mắc gì. Lê Văn Siêu cho rằng điều này hoàn toàn là do sự
ngang ngạnh của vua Lê và không phải Tống Cảo không biết, nhưng đã không phản ứng.
Trong sớ tâu Tống Thái Tông sau này, Tống Cảo nói rằng dù thác cớ đau chân
nhưng ngay sau đó Lê Hoàn lại có thể đi chân đất, cầm cần câu lội xuống nước
câu cá.
Trong lần tiếp sứ Tống, Lê Hoàn còn làm những việc khác trêu
chọc sứ phương Bắc như sai người mang con hổ đến công quán cho sứ Tống xem; lại
sai mang con trăn lớn đến công quán, hỏi sứ Tống có ăn được thì làm cơm thết
đãi. Sứ Tống khước từ không nhận và không dám nổi nóng theo tư thế của sứ giả
thiên triều[13].
Sau đó Lê Hoàn nói với Tống Cảo về việc ngoại giao:
Sau này có quốc thư thì cho giao nhận ở đầu địa giới, khỏi
phiền sứ thần đến tận đây nữa.
Tống Cảo về tâu lại, Tống Thái Tông bằng lòng với đề nghị của
vua Lê.
Năm 995, nhà Tống lại phong Lê Hoàn làm Giao Chỉ quận vương.
Năm 995-996 ở biên giới hai bên đã có biến cố vì sự bạo loạn của các thổ quan
vùng khe động. Tướng nhà Tống bắt hơn 100 người làm loạn trả lại cho Đại Cồ Việt.
Phía nhà Lê cũng bắt 27 người trả lại phía Tống và sai sứ sang tạ ơn. Nhà Tống
lại sai Lý Nhược Chuyết mang chiếu thư và đai ngọc sang ban cho Lê Hoàn. Năm
997, nhà Tống lại gia phong vua Lê làm Nam Bình vương.
Năm 1004, vua Lê sai Hoàng tử Lê Minh Đề đi sứ Tống. Sang
năm 1005, Lê Hoàn mất, các con tranh ngôi, trong nước loạn lạc. Mình Đề phải ở
lại trú ở Quảng Châu. Triều thần nhà Tống xui Tống Chân Tông phát binh đánh,
nhưng vua Tống cho rằng nhà Lê giữ lệ tiến cống và sai con sang chầu, không nên
đánh để giữ cho phía nam yên ổn.
Năm 1006, Lê Long Đĩnh giết anh là Trung Tông giành được
ngôi vua. Nhà Tống không can thiệp. Sang năm 1007, Tống Chân Tông sai sứ sang
phong cho Long Đĩnh làm Giao Chỉ quận vương và đúc ấn đưa sang.
Năm 1009, Lê Ngọa Triều sai sứ đem biếu nhà Tống con tê ngưu
thuần. Vua Tống cho rằng tê ngưu từ xa đến, không hợp thủy thổ muốn trả lại;
nhưng sợ phật ý vua Lê, đợi cho sứ Đại Cồ Việt về rồi mới mang thả ra biển. Lê
Ngọa Triều sau đó lại xin áo giáp mũ trụ giát vàng, vua Tống bằng lòng cho.
Với Chiêm Thành (Champa)
Năm 981, vua Lê Đại Hành sai Từ Mục, Ngô Tử Canh sang sứ
Chiêm Thành, bị vua Chiêm bắt giữ. Hoàng đế Lê Đại Hành nổi giận, sai đóng chiến
thuyền sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh.
Năm 982, vua Lê khởi binh thân hành nam tiến. Quân Đại Cồ Việt
thắng lớn, chém chết vua Chiêm là Ba Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to, nhiều
quân sĩ bị bắt sống. Quân Lê bắt lính cùng kỹ nữ trong cung trăm người và một
nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể
hàng vạn, san phẳng thành trì, phá hủy tông miếu nước Chiêm.
Một viên tướng là Quảng giáp Lưu Kế Tông trốn ở lại Chiêm
Thành và sau này chiếm lấy ngôi vua Chiêm Thành.
Năm 992, vua Chiêm mới là Harivarman II sai sứ sang xin lại
360 tù binh bị bắt giữ mang về châu Ô Lý. Harivarman II sai sứ là Chế Đông sang
dâng sản vật địa phương, vua Lê trách là trái lễ, không nhận. Harivarman II sợ
hãi, năm 994 lại sai cháu là Chế Cai sang chầu. Từ đó quan hệ hai bên khá yên ổn
không xảy ra xung đột.
Lực lượng vũ trang thời Tiền Lê (980 - 1009)
Sau khi Thập đạo tướng quân của nhà Đinh là Lê
Hoàn được tôn làm vua thay Đinh Toàn còn quá nhỏ tuổi để đối phó với nguy cơ
xâm lược Đại Việt của nhà Tống (Trung Quốc), ông đã có một số thay đổi trong cơ
cấu tổ chức lực lượng vũ trang của mình so với Quân đội nhà Đinh được chuyển
thuộc sang nhà Tiền Lê một cách tự nhiên.
Quân đội Tiền Lê được tổ chức thành hai lực lượng chính là
quân Cấm vệ và quân Vương hầu.
Quân Cấm vệ (còn gọi là quân Điện tiền hay quân Túc vệ), là
lực lượng thường trực của Quân đội Tiền Lê và của triều đình. lực lượng này được
biên chế, tổ chức khá hoàn chỉnh từ năm 986, trên cơ sở đổi mới quân Điện tiền
của nhà Đinh, Quân Cấm vệ có khoảng 3.000 người, được lựa chọn trong các đơn vị
quân đội, hàng năm được bổ sung từ những đinh tráng khỏe mạnh nhất trong cả nước.
Quân Cấm vệ gồm có hai bộ phận chính, quân Tùy long làm nhiệm vụ canh gác, bảo
vệ nơi vua ở và làm việc, quân Tứ sương làm nhiệm vụ canh gác bên ngoài các
vòng thành ở kinh đô Hoa Lư.
Đứng đầu lực lượng quân Cấm vệ là một viên tướng có chức
danh Điện tiền chỉ huy sứ, giúp việc cho Điện tiền chỉ huy sứ có Phó Điện tiền
chỉ huy sứ, đồng thời trực tiếp chỉ huy bộ phận quân Tứ sương.
Các binh sỹ trong lực lượng Cấm quân đều phải thích trên
trán ba chữ “Thiên tử quân” để phân biệt với các lực lượng khác trong quân đội.
Quân Vương hầu (còn gọi là quân Vương phủ), đây là những đội
quân riêng của những người được nhà vua phong tước vương. Lực lượng này được
hình thành từ khoảng năm 981 - 995, khi Lê Hoàn (Lê Đại Hành) phong tước cho một
số thái tử, con nuôi của vua và được cử trấn trị ở các địa phương.
Quân Vương hầu là lực lượng nòng cốt ở các đạo (đơn vị hành
chính được tổ chức dưới thời nhà Đinh vẫn được duy trì dưới thời Tiền Lê). Lực
lượng này tuy là quân riêng của các vương hầu, song về nguyên tắc vấn thuộc quyền
điều khiển của nhà vua.
Khi có việc chinh chiến, triều đình sẽ hạ chiếu gọi thanh
niên đinh tráng bổ sung cho quân đội.
Quân đội Tiền Lê được xây dựng theo phương hướng “thủy - bộ
hóa”. Cơ động chủ yếu bằng thuyền. Tác chiến chủ yếu dựa trên sông, biển và
trên bộ.
Trang bị Quân đội nhà Tiền Lê so với Quân đội dưới thời nhà
Đinh nhìn chung chưa có sự cải tiến và đổi mới gì lớn, “vũ khí lạnh” vẫn chủ yếu
như giáo mác, gươm đao, cung nỏ, mộc gỗ, lao tre…
Dưới thời Tiền Lê do nhà nước chú trọng xây dựng và phát triển
mạng lưới giao thông thủy bộ, đặc biệt là nhà nước phong kiến Tiền Lê đã cho
đào nhiều sông ngòi nối liền các sông từ phía bắc đến Thanh Hóa - Nghệ An, nên
quân đội có thể cơ động khá nhanh. Đây được coi là mô hình xây dựng kinh tế kết
hợp củng cố quốc phòng đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Quân đội Tiền Lê đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược Đại
Việt lần thứ nhất năm 981 của nhà Tống (Trung Quốc), do vua Lê Hoàn trực tiếp
chỉ huy.