Khúc Hạo (chữ Hán: 曲顥; 860 - 917) hoặc Khúc Thừa Hạo, được suy tôn là Khúc Trung Chủ, là con của Khúc Thừa Dụ. Quê hương của cha con Khúc Thừa Dụ, Khúc Hạo nay được cho là làng Cúc Bồ, xã Kiến Quốc, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Cha của ông, Tiên chủ Khúc Thừa Dụ vốn xuất thân từ gia đình
hào tộc, nhân nhà Đường loạn không thể kiểm soát nước Việt, Khúc Thừa Dụ được
dân chúng suy tôn làm chúa và tự xưng là Tiết độ sứ, trực tiếp cai trị nước Việt.
Tiên chủ Khúc Thừa Dụ mất, Khúc Hạo lên thay làm Tiết độ sứ.
Ông có vai trò quan trọng trong việc kiến thiết nền móng một
nước Việt tự chủ; thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, trung lập khi ở
Trung Quốc thời ấy có hai nước là Nam Hán và Hậu Lương.
Nước Việt thời bấy giờ bị chính quyền nhà Đường Trung Quốc
đô hộ, năm Kỷ Mão (679) vua Cao Tông nhà Đường chia đất Giao Châu ra làm 12
châu, 59 huyện và đặt An Nam đô hộ phủ. Năm Đinh Mão (907) nhà Đường mất ngôi,
nhà Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu tranh nhau làm vua. Mỗi nhà
được mấy năm, gồm tất cả là 52 năm, gọi là đời Ngũ Quí hay là Ngũ Đại.
Trước khi nhà Đường sắp mất ngôi độ mấy năm, thì bên Trung
Quốc loạn, giặc cướp nổi lên khắp cả mọi nơi. Uy quyền nhà vua không ra đến bên
ngoài, thế lực ai mạnh thì người ấy xưng đế, xưng vương. Hào trưởng Khúc Thừa Dụ,
quê ở Hồng Châu (thuộc địa hạt Bàng Giang và Ninh Giang ở Hải Dương) là một hào
phú trong xứ, mà tính lại khoan hòa, hay thương người, cho nên có nhiều người
kính phục.
Năm Bính Dần (906) đời vua Chiêu Tuyên nhà Đường, nhân khi
trong châu có loạn, dân chúng cử ông làm Tiết độ sứ để cai trị Giao Châu. Nhà
Đường lúc bấy giờ suy nhược, thế không ngăn cấm được, cũng thuận cho ông làm
Tĩnh Hải Tiết độ sứ và gia phong Đồng bình Chương sự.
Năm sau nhà Đường mất ngôi (907), nhà Hậu Lương lên thay,
phong cho Lưu Ẩn làm Nam Bình Vương, kiêm chức Tiết độ sứ Quảng Châu và Tĩnh Hải,
có ý để lấy lại Giao Châu. Khúc Thừa Dụ làm Tiết độ sứ được non một năm thì mất,
giao quyền lại cho con là Khúc Hạo.
Theo Việt giám thông khảo tổng luận, Lê Tung gọi Khúc Thừa Dụ
là Khúc Tiên Chúa, mấy đời là hào tộc mạnh, nhân nhà Đường mất, lòng người yêu
mến, suy tôn làm chúa, dựng đô ở La Thành. Khúc Trung Chúa (tức Khúc Hạo) nối
cơ nghiệp trước, có phong thái của ông nội. Không rõ Lê Tung viết Khúc Hạo là
con hay cháu của Khúc Thừa Dụ.
Kế tập chức Tiết độ sứ
Các sách sử như Đại Việt sử ký toàn thư, An Nam chí lược, Lịch
triều hiến chương loại chí... đều chép rất vắn tắt về Khúc Hạo cũng như những
việc ông làm. Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, vào năm 907, sau khi nhà Đường
mất, nhà Lương lên thay, cho Quảng Châu Tiết độ sứ là Lưu Ẩn kiêm chức Tĩnh Hải
quân Tiết độ sứ, tước Nam Bình vương. Khi ấy Ẩn chiếm giữ Phiên Ngung, người
Giao Châu là Khúc Hạo chiếm giữ châu trị, tự xưng là Tiết độ sứ, có ý mưu đồ lẫn
nhau.
Khúc Hạo kế nghiệp Khúc Thừa Dụ, đóng đô ở La Thành, vốn là
trị sở cũ do nhà Đường xây dựng nên. Sử gia Lê Tung nhận xét rằng Khúc Hạo có
phong thái của ông nội, trù hoạch quyết thắng, ngoài ý mọi người, chống chọi
các nước Bắc triều, là bậc chúa hiền của nước Việt, đã định ra hộ tịch và các
chức quản giáp, chế độ mới lập ít nhiều, nửa chừng thì mất (tức năm 917).
Theo Việt Nam sử lược, Khúc Hạo lập ra lộ, phủ, châu, xã ở
các nơi, đặt quan lại, sửa sang việc thuế má, việc sưu dịch và lại cho con là
Khúc Thừa Mỹ sang sứ bên Quảng Châu, tiếng là kết hiếu với nhau, nhưng cốt để
dò thăm mọi việc hư thực. Năm Đinh Sửu (917) Khúc Hạo mất, truyền nghiệp lại
cho con là Khúc Thừa Mỹ.
Theo sách An Nam chí lược, Khúc Hạo người Giao Chỉ. Cuối đời
Đường, Khúc Hạo làm tiết độ sứ thay cho Độc Cô Tổn: đổi các hương ở các huyện
làm giáp, đặt mỗi giáp một quản giáp và một phó tri giáp để giữ việc đánh thuế.
Khúc Hạo giữ chức tiết độ sứ được bốn năm thì mất.
Theo nghiên cứu của một số nhà làm sử hiện đại ở Việt Nam
thì Khúc Hạo đã có những cải cách quan trọng. Khúc Hạo đã tiến hành cải cách
quan trọng về các mặt. Đường lối chính trị của ông được sử sách tóm lược ngắn gọn
song rất rõ ràng: "Chính sự cốt chuộng khoan dung, giản dị, nhân dân đều
được yên vui".
Khoan dung tức là không bắt buộc, không quá khắt khe với
dân, chống tham quan ô lại. Giản dị là không làm phiền hà, sách nhiễu bởi nhiều
thủ tục quan liêu. Yên vui, "an cư lạc nghiệp" là lý tưởng của nếp sống
mà người nông dân nơi thôn xóm mong đợi.
Khúc Hạo sửa lại chế độ điền tô, thuế má lực dịch nặng nề của
thời thuộc Đường. Ông ra lệnh "bình quân thuế ruộng, tha bỏ lực dịch, lập
sổ hộ khẩu, kê rõ quê quán, giao cho giáp trưởng (quản giáp) trông coi."
Từ mô hình của chính quyền đô hộ nhà Đường với An Nam, nhằm
khắc phục tình trạng phân tán quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa phương, Khúc Hạo
đã có những cố gắng lớn đầu tiên nhằm xây dựng chính quyền độc lập, thống nhất
từ trung ương đến xã.
Hành chính
Lãnh thổ họ Khúc quản lý bao gồm Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Việt
Nam, kéo dài tới phía bắc Hoành Sơn, thêm một phần phía tây nam tỉnh Quảng Tây,
Trung Quốc hiện nay. Khúc Hạo tiến hành cải cách hành chính bằng việc xây dựng
lại bộ máy cai trị mới, dù bộ máy chính quyền họ Khúc được nhìn nhận còn giản
đơn. Trung tâm Tĩnh Hải quân vẫn được đặt tại Đại La (Tống Bình cũ, tức Hà Nội)
như thời thuộc Đường.
Trình tự các cấp đơn vị hành chính dưới thời thuộc Đường là
Châu - Huyện – Hương – Xã. Bộ máy cai trị cũ của nhà Đường bao gồm hệ thống từ
trên xuống. Dù Thứ sử Giao châu là Khâu Hòa từng đặt ra đơn vị xã (tiểu xã từ
10-30 hộ và đại xã từ 40-60 hộ), nhưng chính quyền đô hộ nhà Đường mới chỉ nắm
được đến cấp hương, chưa thể nắm đến cấp xã và không đặt ra các chức quan quản
lý cấp xã ở Giao châu.
So với thời Cao Biền, số đơn vị hành chính thời Khúc Hạo được
tăng lên gấp đôi. Trên bình diện quản lý, chính quyền trung ương đã vươn tới
nhiều nơi hơn thuộc địa bàn trị vị.
Việc đưa nhân khẩu vào quản lý chặt chẽ hơn tại các đơn vị hành
chính tạo điều kiện tăng cường nhân lực cho các hoạt động kinh tế, quân sự của
chính quyền.
Từ mô hình của chính quyền đô hộ nhà Đường với Tĩnh Hải
quân, nhằm khắc phục tình trạng phân tán quyền lực vào tay các thủ lĩnh địa
phương, Khúc Hạo đã có những cố gắng đầu tiên xây dựng chính quyền độc lập, thống
nhất từ trung ương đến xã.
Ông lấy lộ thay châu, lấy phủ châu thay cho huyện. Thời thuộc
Đường, dưới châu là hương, Khúc Hạo đổi hương là giáp, các đơn vị bên dưới giáp
là xã. Khúc Hạo chủ trương xây dựng một bộ máy gần dân, nắm từ dưới lên, tại
đơn vị cơ sở là xã.
Trình tự bộ máy nhà nước tự chủ do Khúc Hạo cải cách là: Lộ
- Phủ - Châu – Giáp - Xã - Quận. Mỗi xã, Khúc Hạo đặt ra xã quan, một người
chánh lệnh trưởng và một người tá lệnh trưởng.
Mỗi giáp có một quản giáp và một phó tri giáp để trông nom
việc kê hộ khẩu, nhân khẩu và việc thu thuế. Theo sách "An Nam chí
nguyên", Khúc Hạo đặt thêm 150 giáp, cộng với những giáp (vốn là hương)
trước đây nhà Đường đặt, cả thảy toàn bộ Tĩnh Hải quân có 314 giáp.
Bằng việc cải cách này, chính quyền họ Khúc đã ý thức được
việc quản lý đến chính quyền cấp cơ sở (giáp và xã). Tuy ghi chép về việc cải
cách, thay đổi hành chính của Khúc Hạo nhưng sử sách lại không ghi rõ ông đã đặt
tên các đơn vị hành chính có tên gọi cụ thể ra sao.
Kinh tế
Thời thuộc Đường, ngoài việc phải cống nạp rất nhiều, người
Việt còn chịu tô thuế và lao dịch nặng nề. Nhằm thay đổi điều đó, Khúc Hạo chủ
trương sửa đổi lại chế độ tô thuế. Ông thực hiện chính sách "bình quân thuế
ruộng". Các sử gia khi xem chính sách này của Khúc Hạo đã cho rằng Khúc Hạo
căn cứ vào cách phân phối ruộng đất theo chế độ công xã của phương thức sản xuất
châu Á thời cổ trung đại, đánh thuế bình quân theo ruộng đất mà các hộ được
phân chia.
Khúc Hạo còn chủ trương bỏ thuế đinh, người thu thuế là Phó
tri giáp, theo mô hình cống nạp liên danh của phương thức sản xuất châu Á thời
cổ trung đại, khắc phục sự phiền hà sách nhiễu của các quan cũng như việc thu
thuế nhiều tầng, nhiều loại, tránh được cả thất thu ngân sách.
Một chính sách khác mà Khúc Hạo áp dụng là "tha bỏ lực
dịch", nhằm bớt đi lao động khổ sai cho người dân dưới thời thuộc Đường.
Việt Nam đương thời vừa có những đặc điểm đặc thù, vừa mang
đầy đủ những đặc trưng cơ bản của hình thái phương thức sản xuất châu Á. Chính
sách của Khúc Hạo có tác động rất lớn đến đời sống xã hội của người Việt đương
thời, phù hợp với kết cấu kinh tế - xã hội khi đó, giảm nhẹ được sự bóc lột của
chính quyền với nhân dân, tạo ra sự dung hòa cần thiết về quyền lợi giữa nhà nước
tự chủ với các làng xã, các thành viên thôn xóm.
Hai chính sách bình quân thuế ruộng và tha bỏ lực dịch được
các sử gia xem là tiền đề tạo ra thành công của cuộc cải cách, tác động tích cực
tới chính trị, văn hóa, xã hội lúc đó. Do nhà nước quản lý tới tận các đơn vị
cơ sở, cải cách kinh tế có tác dụng gây dựng quyền sở hữu ruộng đất của chính
quyền trong xã hội, trên cơ sở đó củng cố và mở rộng dần theo quá trình phát
triển của chế độ quân chủ trung ương tập quyền trong những thời kỳ sau.
Nhà Hậu Lương, trước đây vì mới cướp ngôi nhà Đường, phương
Bắc nhiều biến cố nên thừa nhận Khúc Hạo làm Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân năm 907.
Nhưng qua năm sau, vua Hậu Lương là Chu Ôn lại phong cho Tiết độ phó sứ ở Quảng
Châu là Lưu Ẩn kiêm chức "Tĩnh Hải quân tiết độ, An Nam đô hộ". Điều
đó có nghĩa là người Trung Quốc vẫn muốn chiếm lại Việt Nam. Sự cai trị vững
vàng của Khúc Hạo khiến họ Lưu ở Quảng Châu không dám nhòm ngó tới phương nam.
Khi được tăng cường lực lượng từ các sĩ dân Trung nguyên di
cư xuống phía Nam, Quảng Châu mạnh lên. Tháng 9 năm 917, em Lưu Ẩn là Lưu Nghiễm
(lên thay từ năm 911) bèn xưng đế, lập ra nước Nam Hán, một trong mười nước thời
Ngũ đại Thập quốc.
Nhận thấy nguy cơ từ phía họ Lưu, Khúc Hạo sai con là Khúc
Thừa Mỹ làm "khuyến hiếu sứ" sang Quảng Châu, bề ngoài là để ‘‘kết mối
hòa hiếu’’, song bề trong cốt là xem xét tình hình hư thực của địch.
Cuối năm 917 khi Khúc Thừa Mỹ trở về thì Khúc Hạo mất. Dù
ông chưa từng xưng đế hay xưng vương nhưng đời sau nhớ công lao của ông và gọi
ông là ‘‘Khúc Trung chủ’’.
Do hành động ngoại giao mềm dẻo của Khúc Hạo, Nam Hán không
gây hấn với Tĩnh Hải quân. Sau này, do Khúc Thừa Mỹ từ bỏ chính sách của cha,
nhận chức Tiết độ sứ từ nhà Lương chứ không thừa nhận nhà Nam Hán nên có thể là
nguyên nhân quân Nam Hán tiến quân xâm lược nước Việt.
Vào thế kỷ 10, trong khi các hào trưởng địa phương ít nhiều
có xu hướng độc lập, cát cứ với chính quyền trung ương (ngay cả các triều đại
Ngô, Đinh sau đó cũng vậy), Khúc Hạo đã khéo léo dựa vào họ để củng cố chính
quyền cơ sở. Cuộc cải cách của ông tạo cơ sở kinh tế, xã hội vững chắc cho nền
độc lập, tự chủ của người Việt sau này.
Ths Nguyễn Thy Ngà Tổng hợp InterNet