Đền Lảnh Giang (người dân thường gọi là Đền Lảnh) nằm trong địa phận thôn Yên Lạc, xã Mộc Nam , huyện Duy Tiên, Hà Nam . Theo Thần Phả, Đền phụng thờ Tam vị danh thần họ Phạm đời Hùng Vương thứ 18, Tiên Dung công chúa và Chử Đồng Tử.
Cổng Tam Quan Đền Lành Giang
Bản cổ thư ghi lại và lưu giữ trong đền Lảnh Giang cho biết:
Căn cứ vào thần tích “ Hùng triều nhất vị thuỷ thần xuất thế
sự tích ” (sự tích ra đời một vị thuỷ thần triều vua Hùng(() Thần tích này do
Bát phẩm thư lại Nguyễn Hiền, tuân theo bản cũ triều trước, chép lại vào niên
hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Thần tích đang được lưu giữ tại Đền Lảnh.) cùng các
sắc phong, câu đối, cũng như truyền thuyết địa phương thì lịch sử ba vị tướng họ
Phạm thời Hùng Vương được thờ ở Đền Lảnh Giang như sau:
Ngày xưa, ở trang An Cố, huyện Thuỵ Anh, phủ Thái Ninh, trấn
Sơn Nam có vợ chồng ông Phạm Túc ăn ở phúc đức, chỉ hiềm một nỗi ông bà tuổi đã
cao mà vẫn chưa sinh được một mụn con nối dõi.
Một đêm trăng thanh gió mát, vợ ông (bà Trần Thị Ngoạn) đang
dạo chơi bỗng gặp một người con gái nhà nghèo, cha mẹ mất sớm, không có anh em
thân thích, đi tha phương cầu thực.
Động lòng trắc ẩn, bà Ngoạn liền đón cô về làm con và đặt
tên là Quý. Ông bà coi nàng Quý như con ruột của mình. Vài năm sau, trong lúc
gia đình đang vui vầy, đột nhiên ông Túc mắc bệnh rồi qua đời. Hai mẹ con đã
tìm một nơi đất tốt để an táng cho ông.
Sau ba năm để tang cha, một hôm nàng Quý ra bờ sông tắm gội,
ngâm mình dưới nước, bỗng mặt nước nổi sóng, từ phía xa một con thuồng luồng khổng
lồ bơi tới quấn lấy nàng, khiến nàng kinh hoàng ngất lịm. Lúc tỉnh dậy thì thấy
mình nằm bên bờ sông và thuồng luồng đã bỏ đi. Từ hôm đó nàng thấy trong lòng
chuyển động và mang thai.
Không chịu được những lời gièm pha khinh thị, nàng đành phải
trốn khỏi làng đến xin ngụ cư ở Trang Hoa Giám (nay thuộc thôn Yên Lạc). Rồi đến
ngày mùng 10 tháng Giêng năm Tân Tỵ, nàng Quý chuyển dạ, sinh ra một cái bọc.
Cho là điểm chẳng lành, nàng liền đem chiếc bọc đó quẳng xuống sông. Chiếc bọc
trôi theo dòng nước tới trang Đào Động (xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, Thái Bình),
mắc phải lưới của ông Nguyễn Minh.
Sau nhiều lần gỡ bỏ, nhưng bọc vẫn cứ mắc
vào lưới. Ông Minh thấy lạ bèn khấn: “Nếu bọc này quả là linh thiêng thì cho
tôi lấy dao rạch thử xem sao” Khấn xong ông Minh rạch ra, bỗng thấy ba con rắn
từ trong bọc trườn xuống sông. Con thứ nhất theo hướng về cửa sông Đào Động,
con thứ hai về Thanh Do, con thứ ba về trang Hoa Giám – nơi nàng Quý đang sinh
sống. Nhân dân các trang ấp trông thấy đều sợ hãi, cùng nhau ra bờ sông tế tụng,
xin được lập sinh từ để thờ.
Lạ thay, vào một đêm trăng sáng, trời bỗng nổi cơn giông,
ngoài cửa sông sấm sét nổi lên dữ dội. Đến gần sáng, gió mưa ngớt dần, mọi người
đều thấy dưới sông có tiếng người ngâm vịnh:
Sinh là tướng, hóa là thần
Tiếng thơm còn ở trong dân muôi đời
Khi nào giặc dã khắp nơi
Bọn ta mới trở thành người thế gian (1)
(1) Tương truyền ba vị tướng thời Hùng là con của Bát Hải
Long Vương và Nàng Quý. Nàng Quý là con nuôi của vợ chồng ông Phạm Túc. Do vậy
về sau nhân dân ghép họ Phạm cho các ông.).
Bấy giờ Thục Phán – thuộc dòng dõi tôn thất vua Hùng, thấy
Duệ Vương tuổi đã cao mà không có con trai, nên có ý định cướp ngôi. Thục Phán
cầu viện binh phương Bắc, chia quân làm 5 đường thuỷ bộ cùng một lúc đánh vào
kinh đô. Duệ Vương cho gọi tướng sĩ lập đàn cầu đảo giữa trời đất.
Đêm ấy nhà vua chiêm bao thấy có người sứ giả mặc áo xanh từ
trên trời bước xuống sân rồng, truyền rằng: “Nhà vua nên triệu ba vị thuỷ thần
sinh ở đạo Sơn Nam, hiện còn là hình con rắn thì tất sẽ dẹp xong được giặc”. Tỉnh
dậy Duệ Vương liền cho sứ giả theo đường chỉ dẫn trong giấc mộng tìm về đạo Sơn
Nam. Sứ giả vừa đến trang Đào Động (nay thuộc xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh
Thái Bình), bỗng nhiên trời đổ mưa to, sấm sét nổi lên dữ dội ở cửa sông.
Một người mặt rồng mình cá chép, cao tám thước đứng trước sứ
giả xưng tên là Phạm Vĩnh, xin được đi dẹp giặc. Sau đó, ông Phạm Vĩnh gọi hai
em đến bái yết thân mẫu, rồi cùng nhau đi yết kiến Duệ Vương. Vua Hùng liền
phong cho ông là Trấn Tây, giữ các vùng Sơn Nam, ái Châu, Hoan Châu. Hai em và
các tướng hợp lại, dưới sự chỉ huy của ông, 5 đạo quân Thục đều bị tiêu diệt.
Nghe tin thắng trận, Duệ Vương liền truyền lệnh giết trâu, mổ
bò khao thưởng quân sĩ. Vì có công lớn nên nhà vua lại phong cho ông là “Nhạc
Phủ Ngư Thượng Đẳng Thần” nhưng ông không nhận, chỉ xin cho dân Đào Động hàng
năm không phải chịu sưu dịch. Được vua Hùng đồng ý, ông Phạm Vĩnh cùng hai em về
quê hương bái yết thân mẫu và khao thưởng gia thần, dân chúng.
Thấy ở bên sông có khu đất tốt, ông Phạm Vĩnh cho lập đồn
dinh cư trú, ban cho dân 10 hốt vàng để mua ruộng đất, khuyến khích nông trang,
khuyên mọi người làm việc thiện lương. Nhờ công đức của ông mà nhân dân khắp
vùng được sống yên vui.
Ngày 25 tháng 8 năm Bính Dần, trong lúc ông đang ngự tại
cung thất của mình, bỗng dưng giữa ban ngày trời đất tối sầm, mưa gió ầm ào đổ
xuống. Khi trời quang mây tạnh, dân làng không nhìn thấy ông đâu nữa. Cho là điều
kỳ lạ, nhân dân trang Đào Động làm biểu tâu với triều đình.
Được tin ông Phạm Vĩnh về trời, nhà vua liền gia phong cho
ông là “Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ưng Thái Thượng Đẳng Thần”, đồng thời đặt lệ quốc
lễ, ban sắc chỉ cùng 400 quan tiền cho dân Đào Động rước thần hiệu, tu sửa đền
miếu để phụng thờ.
Các triều đại sau đó cũng có sắc phong cho ông (hiện trong đền
còn giữ 12 sắc phong. Sắc sớm nhất là đời Lê Cảnh Hưng, sắc muộn nhất vào triều
Nguyễn, niên hiệu Duy Tân thứ 7, ngày 18 tháng 10 có chép: “Sắc cho xã An Lạc,
huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam phụng thờ Trấn An Tây Nam Tam Kỳ Linh ứng triều
Hùng thiêng liêng rõ rệt, trước đây chưa có dự phong. Gặp nay trẫm vâng chịu mệnh
lớn, nghĩ đến công thần biểu dương phong cho vị thần, phò giúp nền nếp quốc
gia, cho phép y theo lệ cũ kính thờ”.
Hàng năm tại Đền Lảnh Giang, nhân dân địa phương tổ chức 2 kỳ
lễ hội chính vào các ngày từ 18 đến 25 tháng 6 và tháng 8 âm lịch. Theo tục lệ
địa phương thì kỳ lễ hội tháng 6 là để dành cho các khách thập phương, còn kỳ lễ
hội tháng 8 chủ yếu dành cho các khách quanh vùng. Những ngày này thường gặp nước
sông Hồng dâng cao nhưng lòng dân vẫn hướng về ngày lễ hội. Có nhiều năm nước
ngập nhưng các thiện nam tín nữ cùng nhân dân bản địa vẫn bơi thuyền ra đền
dâng lễ và thực hiện đầy đủ các nghi thức để tỏ lòng tôn kính tam vị danh thần
họ Phạm, Tiên Dung và Chử Đồng Tử.
Cụ Bùi Bằng Đoàn(( Cụ Bùi Bằng Đoàn (1886 – 1953) là người
xã Liên Bạt, huyện Sơn Lăng tỉnh Hà Đông (nay là Hà Tây). Cụ đỗ Cử nhân năm
Thành Thái thứ 18 (1906), làm Thượng thư Bộ Hình. Sau Cách mạng tháng tám 1945,
cụ được làm Trưởng ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Bài
thơ này cụ viết vào tháng 2/1907.) khi viết về công lao đánh giặc của ba vị tướng
họ Phạm thời Hùng Vương thờ tại Đền Lảnh Giang trong tập sách “Giang Sơn cổ
tích đề vịnh”, có bài thơ như sau:
“Hùng gia quý thế tam huynh đệ
Phạm tộc giang hương phả tượng truyền
Phá tặc an dân nhân dĩ viễn
Anh thanh thiên cổ nguyệt cao huyền”.
Dịch là:
Anh em ba vị cuối triều Hùng
Họ Phạm quê nhà xóm bãi sông
Đánh giặc cứu dân người đã khuất
Còn nêu sự nghiệp sáng trăng trong.
Trong báo cáo ngày 16/5/1996, cơ quan Bảo tàng lịch sử tỉnh
Nam Hà (cũ) có nhận xét: Đền Lảnh Giang là di tích thờ ba vị tướng họ Phạm thời
Hùng Duệ Vương có công lao đánh giặc Thục, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc.
Khi đất nước thanh bình, các ông là những người quan tâm, chăm lo đến sản xuất,
làm cho đời sống nhân dân ngày một ấm no hạnh phúc...
Đền Lảnh Giang là công trình kiến trúc quy mô, uy linh, bề
thế, mang đậm nét nghệ thuật kiến trúc và xây dựng cổ truyền của dân tộc. Tại
đây còn giữ được nhiều cổ vật thờ cúng có giá trị cao về nghệ thuật.
Từ những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cổ truyền
dân tộc của Đền Lảnh Giang, ngày 5/11/1996, Bộ Văn hóa Thông tin đã cấp bằng
công nhận đền Lảnh Giang là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia
Diện tích đền vào khoảng 3.000 m2, quanh đền không có núi đồi
nhưng lại biêng biếc với màu xanh của rừng nhãn, bến nước, đầm sen, phảng phất
hào khí của một miền địa linh nhân kiệt, phồn thịnh êm đềm.
Cửa đền nhìn hướng ra là dòng sông Nhị Hà hay Sông Hồng.
Phía Tây đền cách khoảng 300m là màu xanh của lúa, bảng lảng khói lam chiều, thấp
thoáng đền thở Đức Vua (vua Lê).
Giáp xã Mộc Nam về phía bắc Lảnh Giang, thôn Yên Từ, Mộc Bắc
trầm mặc ngôi đền thờ Ngọc Hoa công chúa, em gái Tiên Dung. Phía nam giáp làng
Nha Xá, đình thờ Trần Khánh Dư, vị tướng tài giỏi của Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn, người đã có công đánh giặc Nguyên Mông trên chiến tuyến Vân Đồn (Quảng
Ninh).
Tam quan đền được xây theo kiểu chồng diêm tám mái, các đầu
đao cong vút theo hình đầu rồng đắp nổi, đan xen mặt nguyệt, lá lật cách điệu mềm
mại. Đằng trước Tam quan là hồ bán nguyện với nước hồ phẳng lặng như bàn ngọc
thạch bày lên những đóa hoa súng đỏ tươi. Giữa hồ có hồn bảo tháp đứng trang
nghiêm được nối với đền bằng chiếc cầu cong tạc theo lưỡi long hướng địa, ẩn hiện
dưới bóng cây si già hàng ngàn năm tuổi.
Đền Lảnh Giang được xây dựng theo thiết kế nội công ngoại quốc
bao gồm 3 tòa, 14 gian hai bên có nhà khách, lầu thờ và 4 bên có tường gạch bao
quanh. Trong đền là thờ tượng Tiên Dung công chúa, khánh long đình, khám đặt tượng
thờ 3 vị tướng thời Hùng vương được chạm khắc công phu theo phong cách đời Lê.
Đền còn vinh dự giữ được hai kiệu bát cống long đình, một sập thờ và nhiều
hoành phi, câu đối, nhang án.
Đền Lảnh Giang còn có tên gọi là Lảnh Giang linh từ, tọa lạc
tại thôn Từ thị trấn Đồng Văn, theo quốc lộ 60A đi 8km đến ngã ba thị trấn Hòa
Mạc, rẽ trái đi 5km đến bến đò Yên Lệnh, ngược bờ đê sông Hồng 3km là tới đền.
Hiện nay, ngôi đền này vẫn chưa xác định được thời gian xây
dựng. Qua năm tháng khắc nghiệt của thời gian, ngôi đền bị mai một nhưng lại được
nhân dân địa phương xây dựng thờ cúng, ngôi đền có quy mô và bề thế như hiện
nay.
Lễ hội đền Lảnh Giang
Mỗi năm, đền tổ chức hai lễ hội, từ ngày 2 đến 5 tháng 6 âm
lịch và 20 tháng 8 âm lịch. Đầu tiên nghi thức tế lễ, rước thánh được tổ chức đầu
tiên thu hút hàng ngàn khách thăm quan về xem và thành tâm. Ngoài phần lễ còn
có phần hội gồm nhiều hoạt động hấp dẫn như: Diễn xướng dân gian hầu Thánh (hát
chầu Văn) tái hiện huyền tích vị Thánh đền Lảnh Giang; múa rồng, múa lân, múa
sư tử, võ vật, chọi gà, đánh gậy, đấu cờ người, tổ tôm điếm, thi thổi cơm trên
quang gánh, diễn tập trận giả, hát chầu văn, thi bơi chải trên sông Hồng.