Tướng quân Cao Lỗ và cây “nỏ thần” huyền thoại đã “bước dần” ra từ vùng huyền sử để trở thành một biểu tượng khẳng định những giá trị trường tồn của truyền thống, tinh thần, văn hóa dân tộc.
Cao Lỗ (277 TCN - 179 TCN), còn gọi là Cao Thông, Đô Lỗ, Thạch
Thần hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần, danh tướng trí tuệ, đa tài của An Dương
Vương (vua Thục Phán), quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh
ngày nay.
Ông từng làm bộ tướng của Hùng Vương thứ 18 nhưng không được
trọng dụng. Sau này Thục Phán lãnh đạo nhân dân giết tướng giặc Đồ Thư và đánh
tan 50 vạn đại quân nhà Tần, ông mới cảm phục ra giúp Thục Phán.
Thục Phán cũng rất quý trọng tài của ông. Hình tượng Cao Lỗ chính
là sự huyền thoại hóa sức mạnh tồn tại và phát triển của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam trong dựng nước và giữ nước.
Cao Lỗ được trao quyền phụ trách huấn luyện đội quân cung nỏ
của triều đình. Hàng vạn quân sĩ Âu Lạc, dưới sự chỉ đạo của ông ngày đêm luyện
tập, làm chủ vũ khí mới, lợi hại này. Sau dịp ngự lãm tướng sĩ luyện tập cung nỏ,
An Dương vương Càng mãn ý, trao cho Cao Lỗ làm tướng quân giữ trọng trách trấn
giữ của Bắc – cửa xung yếu nhất của kinh thành Cổ Loa.
Chính đội quân cung nỏ thiện chiến của tướng quân Cao Lỗ đã
làm khiếp đảm những cánh quân của Triệu Đà khi xâm phạm vào Cổ Loa.
Khi Triệu Đà dùng mưu chước cầu hôn, xin cho con trai sang ở
rể, nhiều người trong đó có Cao Lỗ đã nhìn rõ quỷ kế này của Đà và dũng cảm can
An Dương Vương: “Nó mượn cớ cầu hòa, kết hôn để dùng mưu cướp nước ta!”.
An Dương Vương không nghe lời phải. Cao Lỗ đã cử người giám
sát chặt chẽ Trọng Thủy. Nhưng viên Lạc hầu giữ của Đông ghen tài Cao Lỗ, nhận
tiền mua chuộc của cha con Triệu Đà, đã gièm pha, xúc xiểm Cao Lỗ với An Dương
Vương. Từ đó vương ngày một đối xử bạc bẽo với Cao Lỗ. Chẳng còn con đường nào
khắc để mang tâm huyết tài trí giúp dập, bảo vệ triều đình, đất nước, Cao Lỗ
đành phải rời bỏ triều đình. Trước khi đi, Cao Lỗ nói với vua: “Giữ được nỏ thần
thì giữ được nước, mất nỏ thần thì mất nước”.
Hay tin quân Triệu Đà tấn công kinh thành, Cao Lỗ đã quay về
Cổ Loa để bảo vệ vua, bảo vệ thành. Sức yếu, thân cô, cố sức xông pha trận mạc
để mở đường cho An Dương Vương, Ông đã gục ngã trên chính mảnh đất Cổ
Loa.
Tấm bia Thần tích bi ký được lập vào năm Khải Định 6 (1921)
tại làng Tiên Hội (Đông Anh, Hà Nội) còn cho biết thêm Cao Lỗ là vị tướng có
tài được An Dương Vương phong làm thống lĩnh toàn quân và đóng đại bản doanh tại
Vũ Ninh. Một ngày kia, khi hành quân qua đây, được dân làng cung kính nghênh
bái. Nhân thấy phong cảnh nên thơ, hình thế đất đẹp bèn dừng chân hạ trại, lập
hành cung và tỏ ý sau này thác đi dùng làm nơi an nghỉ.
Tương truyền, điếm xóm Chùa thuộc xã Cổ Loa hiện nay trước
kia là một trạm gác, có thể được xây dựng cùng thời với đình Ngự triều di quy.
Sau khi tướng Cao Lỗ chết, do có công chế tạo nỏ thần nên ông được xóm
Chùa thờ làm thành ông hoàng và thờ tại điếm ấy. Có ý kiến cho rằng ngôi
miếu cửa Bắc mới được xây dựng lại, nằm trên vòng Thành Trung đoạn phía Bắc,
giáp giới giữa xóm Bãi và xóm Thượng, cạnh con đường nhựa từ Cổ Loa lên Uy Nỗ
là nơi thờ Cao Lỗ.
Ông không chỉ là linh hồn của sự đoàn kết thống nhất các bộ
tộc người Việt để mở mang đất nước mà còn để tạo ra sức mạnh đủ để chống lại
các cuộc xâm lăng từ phương bắc. Sự đồng tâm nhất trí của cả dân tộc đã làm nên
một Loa thành huyền thoại và sức mạnh của “nỏ thần” chiến thắng quân xâm lược
Huyền sử lung linh
Dù cho thời dựng kinh đô Cổ Loa của quốc gia Âu Lạc chưa được
ghi chép lại bằng văn bản nhưng nhân dân vẫn nhớ đến tướng tài Cao Lỗ qua Huyền
thoại nỏ thần lung linh trong tâm thức mỗi người Việt từ thủa ấu thơ.
Tướng quân Cao Lỗ và cây “nỏ thần” huyền thoại đã “bước dần”
ra từ vùng huyền sử để trở thành một biểu tượng khẳng định những giá trị trường
tồn của truyền thống, tinh thần, văn hóa dân tộc.
Quốc gia Âu Lạc ra đời (cuối thế kỷ III trước Công nguyên)
là kết quả của quá trình dung hợp hòa bình Lạc Việt và một phần Tây Âu. Cư dân
của hai tộc này đã cùng giúp đỡ lẫn nhau, đoàn kết chống lại sự uy hiếp mạnh mẽ
của thế lực ngoại bang.
Chỉ trong khoảng ba mươi năm, kinh tế Âu Lạc nhanh chóng
phát triển, lúa nước được trồng trên diện tích rộng lớn ở châu thổ sông Hồng và
sông Mã, đem lại số lương thực dự trữ dồi dào.
Âu Lạc lại có vũ khí hiện đại đương thời. Tất cả đặt trên một
văn hóa bản địa Đông Sơn rực rỡ. Ở khu vực Cổ Loa các nhà khảo cổ học đã phát
hiện ra nhiều loại công cụ lao động và vũ khí thuộc thời đại Đông Sơn, trong đó
trống đồng là hiện vật tiêu biểu.
Người Âu Lạc đã lựa chọn được một thủ lĩnh tài ba của mình
là Thục Phán - An Dương Vương. Sát cánh trợ giúp đắc lực cho An Dương Vương
trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước Âu Lạc là tướng quân Cao Lỗ với cây
“nỏ thần” huyền thoại. Thứ vũ khí thần diệu này tương truyền được làm từ móng
rùa thần.
Sách Lĩnh Nam chích quái ghi : “Vua sai Cao Lỗ làm nỏ, lấy
vuốt làm lẫy”. Còn theo Việt sử lược : Cao Lỗ “làm được nỏ liễu, mỗi lần giương
nỏ bắn ra được mười phát tên”. Hàng ngày Cao Lỗ huấn luyện cho binh sĩ tập bắn
nỏ. Ông “dạy được một vạn quân lính”. Nơi An Dương Vương xưa thường xem tập bắn
nay còn dấu tích Ngự xạ đài.
Cao Lỗ - thần tướng của tri thức Việt Nam
Cao Lỗ là ai mà được An Dương Vương giao trọng trách chế tạo
loại vũ khí đặc biệt này và chịu trách nhiệm huấn luyện quân sĩ ? Theo Thần
tích làng Đại Than (nay thuộc huyện Gia Bình, Bắc Ninh): Quê ông ở làng Đại
Than, châu Vũ Ninh, Khi An Dương Vương dựng nước Âu Lạc, Cao Lỗ từ biệt cha mẹ,
làng quê thân yêu, mang tài năng ra giúp nước.
An Dương Vương cùng Cao Lỗ chọn Cổ Loa làm nơi định kinh đô.
Nhà vua tin tưởng giao cho Cao Lỗ toàn quyền chỉ huy quân đội và chỉ huy công
việc xây đắp thành lũy. Thành xây xong, Cao Lỗ lại được vua “giao nhiệm vụ” chế
“nỏ thần”. Nỏ “thần” được chế thành công và người chế nó cũng được phong “thần”.
Theo Việt sử lược:
“Lúc đó An Dương Vương có người thần tên là Cao Lỗ, làm được
nỏ liễu, mỗi lần giương bắn ra được mười mũi tên”. Các sách khác còn phóng đại
uy lực của “nỏ thần” Cổ Loa lên nhiều lần : Giao Châu ngoại vực ký của Trung Quốc
ghi : “Mỗi phát giết được ba trăm người”; sách Nam việt chí thì viết: “Bắn một
phát giết chết quân Nam Việt hàng vạn người, bắn ba phát giết ba vạn người”;
còn sách Việt kiệu thư lại ghi là: “Mỗi phát tên xuyên qua hơn chục người”.
Sách Lĩnh Nam chích quái chép: “Cứ đem nỏ thần chĩa vào giặc
là chúng không dám đến gần”. Ở Trung Quốc cũng có nỏ máy của Khổng Minh trong
trận chiến với Mạnh Hoạch nhưng những cỗ máy bắn tên này chỉ nổi tiếng sau “nỏ
thần” Cổ Loa hơn 400 năm...
Nỏ thần ... “hiện” dần ra từ huyền thoại..
Sự tích Loa thành - An Dương Vương gắn liền với truyền thuyết
về nỏ thần với chiếc lẫy nỏ linh nghiệm. Hôm nay đến Cổ Loa vẫn có thể “nhìn”
thấy những ảnh xạ của truyền thống thiện chiến thạo dùng cung nỏ qua di tích,
qua địa danh... có thể “sờ” thấy hệ thống vũ khí và “binh công xưởng” đã dần
phát lộ tại công trường khai quật của các nhà khảo cổ học...
TS Lại Văn Tới (Trung tâm nghiên cứu kinh thành) cho biết:
“Từ năm 1959 ở Cổ Loa đã phát hiện được kho tên đồng hàng vạn mũi tại khu vực Cầu
Vực. Nhưng phải tính từ cuộc khai quật Đền Thượng năm 2005 phát hiện di tích lò
đúc mũi tên đồng cùng các khuôn đúc mũi tên ba cạnh thì truyền thống “nỏ thần”
mới dần dần được chứng minh bằng những hiện vật, bằng những luận cứ khoa học
xác đáng ...”. Những gì đã phát hiện cho phép xác định rằng khu vực tây nam
thành Trong xưa là một “binh công xưởng” - có thể không phải duy nhất - làm nhiệm
vụ đúc mũi tên trang bị cho quân đội của An Dương Vương.
Khu vực Đền Thượng đã được khai quật ba lần liên tiếp trong
ba năm (2005, 2006, 2007) để nghiên cứu và bảo tồn tại chỗ di tích đặc sắc này.
Cây nỏ linh thiêng có sức mạnh vô địch “chỉ sông sông cạn, chỉ ngàn ngàn tan” đã
đậm nét trong truyền thuyết đang được các nhà khoa học “đưa dần ra ánh sáng” dù
huyền sương lịch sử đã xa xăm.
Những mũi tên đồng 3 cạnh và lẫy nỏ, khai quật được trong thành Cổ Loa
Du khách đến đây sẽ được xem tận mắt dấu vết của lò đúc, những
phần còn lại của khuôn đúc, những mũi tên đồng ba cạnh đặc trưng Cổ Loa - sản phẩm
mang “thương hiệu Việt” đã từng nhiều lần gây kinh hoàng cho quân xâm lược. Có
thể khẳng định rằng: Người Việt đã đúc được mũi tên bằng “công nghệ cao”. Người
đứng đầu “dây truyền công nghệ cao” đó chính là tướng quân Cao Lỗ. Các thế hệ
sau hoàn toàn có thể tôn vinh Cao Lỗ là vị Tổ sư của ngành quân khí Việt Nam.
Dạo bước trong Cổ Loa thành hôm nay vẫn còn gặp nhiều địa
danh gắn liền với truyền thống thiện chiến sử dụng cung nỏ thời An Dương Vương:
gò Đống Bắn, Ngự xạ đài, Cường Nỗ, Uy Nỗ, Kính Nỗ... (nỗ = nỏ), Cổng Gỗ - tương
truyền là nơi đặt lò đúc mũi tên, Cầu Dâu - nơi vua thường cho chở đồng đến,v.v.
10 trong số 85 địa danh ở vùng Cổ Loa được thống kê và phân tích có liên quan đến
cung nỏ là con số không hề nhỏ. Chưa (và khó có thể) có số liệu chính xác về
quân số quân đội thời Cổ Loa nhưng với số lượng lớn mũi tên cùng với quy mô
“khu binh công xưởng” được phát hiện có thể đoán định rằng quân đội của An
Dương Vương tập trung với số lượng lớn, được trang bị và huấn luyện tốt.
Chùm ảnh đền thờ danh tướng Cao Lỗ thời An Dương Vương
Bài và ảnh NGÔ VƯƠNG ANH