Lê Long Đĩnh (chữ Hán: 黎龍鋌 15 tháng 11 năm 986 – 19 tháng 11 năm 1009) là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Tiền Lê trong lịch sử Việt Nam. Ông lên ngôi sau khi ám sát người anh trai là Lê Trung Tông để giành ngôi.
Ông trị vì được 4 năm, từ năm 1005 đến năm 1009. Cái chết đột
ngột của ông ở tuổi 24 dẫn đến việc chấm dứt nhà Tiền Lê, quyền lực rơi vào tay
vua Lý Công Uẩn, lập lên nhà Lý.
Trong sử sách, Lê Long Đĩnh được nhắc đến là một ông vua dâm
đãng, tàn bạo và độc ác, bị coi là điển hình của một hôn quân. Tuy nhiên, gần
đây xuất hiện một số ý kiến cho rằng một số tình tiết về Lê Long Đĩnh là do
thêu dệt mà lên, như "dâm loạn quá độ nên bị bệnh
trĩ", vốn là lời đồn dân gian từ thời Hậu Lê.
Xuất thân
Lê Long Đĩnh còn có tên là Lê Chí Trung (黎至忠),
sinh vào tháng 10, ngày Bính Ngọ, năm Bính Tuất (tức ngày 15 tháng 11 năm 986)
tại kinh đô Hoa Lư, là con trai thứ năm của Lê Đại Hành. Sử không chép rõ về
tên của mẹ ông, chỉ ghi là Chi hậu Diệu nữ hoặc sơ hầu Di nữ, và ghi ông là em
cùng mẹ với Nam Phong vương Lê Long Việt.
Đại Việt sử ký toàn thư (bản kỷ) chép rằng năm Hưng Thống thứ
4 (992), ông được Lê Đại Hành phong tước Khai Minh vương (開明王),
cho thực ấp ở Đằng Châu (Hưng Yên ngày nay).
Năm 1004, Kình Thiên đại vương Lê Long Thâu (con cả của Lê Đại
Hành) mất, Lê Đại Hành lập Nam Phong vương Long Việt làm Hoàng thái tử, gia
phong Long Đĩnh làm Khai Minh đại vương, Lê Long Tích làm Đông Thành đại vương.
Trước đó, theo Đại Việt Sử ký Toàn thư ghi nhận, Lê Long Đĩnh xin làm Thái tử,
Lê Đại Hành có ý muốn cho, đình thần bàn nghị lập thứ mà không lập trưởng là
không phải lễ, nhà vua bèn thôi.
Tranh đoạt Hoàng vị
Năm 1005, vua Lê Đại Hành băng hà ở điện Trường Xuân, Thái tử
Lê Long Việt cùng với 3 người em khác là Đông Thành vương Lê Long Tích, Trung
Quốc vương Lê Long Kính và người em cùng mẹ Khai Minh đại vương Lê Long Đĩnh
tranh giành ngôi vị. Sách An Nam chí lược chép rằng: "Lê Hoàn đã chết, mấy
người con đều tụ tập binh mã, chia đặt trại sách, quan thuộc ly tán, nhân dân
lo sợ".
Các bên giằng co trong 8 tháng, đất nước không có chủ. Tháng
10 năm 1005, Lê Long Việt đánh bại Đông Thành vương khiến Vương phải chạy vào đất
Cử Long. Lê Long Việt lại đuổi bắt, Đông Thành vương chạy sang Chiêm Thành,
chưa đến nơi thì bị người châu Thạch Hà giết ở cửa biển Cơ La. Lê Long Việt do
đó lên ngôi, tức là Trung Tông Hoàng đế.
Tuy nhiên, Trung Tông ở ngôi được 3 ngày thì bị Lê Long Đĩnh
giết chết. Bầy tôi đều chạy trốn hết, chỉ có Điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm
xác mà khóc. Theo Đại Việt sử ký, có nguồn dã sử chép lại chi tiết việc hành
thích vua anh của Lê Long Đĩnh: "Đại Hành băng, Trung Tông vâng di chiếu nối
ngôi. Long Đĩnh làm loạn, Trung Tông vì anh em cùng mẹ không nỡ giết, tha cho.
Sau Long Đĩnh sai bọn trộm cướp đêm trèo tường vào cung giết Trung Tông".
Mùa đông năm 1005, Lê Long Đĩnh xưng là Khai Thiên Ứng Vận
Thánh Văn Thần Vũ Tắc Thiên Sùng Đạo Đại Thắng Minh Quang Hiếu Hoàng đế (開天應運聖文神武則天崇道大勝明光孝皇帝),
truy tôn mẹ là Hưng Quốc Quảng Thánh Hoàng thái hậu (興國廣聖皇太后). Một số nguồn cho
rằng Lê Long Đĩnh truy hiệu cho vua anh Lê Long Việt là Trung Tông, tuy nhiên Đại
Việt sử ký tiền biên lại cho rằng đó là hiệu do Lý Công Uẩn truy tôn: Sử cũ
chép Đĩnh truy đặt tên thụy cho Ngoạ Triều là Trung Tông Hoàng đế. Nhưng lấy việc
Lý Thái Tổ truy đặt tên thụy cho Ngọa Triều mà suy, thi cổ lẽ là triều Lý truy
đặt tên thụy cho Trung Tông mới đúng sự thật.
Cùng năm 1005, Ngự Bắc vương Lê Long Cân cùng Trung Quốc
vương Lê Long Kính chiếm trại Phù Lan làm phản. Lê Long Đĩnh thân đi đánh, đến
Đằng Châu, viên Quản giáp là Đỗ Thị đem việc người anh em họ ngoại là Lê Hấp Ni
làm phản tâu lên. Long Đĩnh sai bắt tra hỏi, Hấp Ni và những kẻ dự mưu 12 người
đều bị giết.
Đến trại Phù Lan, người trong trại đóng cửa trại cố thủ.
Đánh không hạ được, bèn vây chặt vài tháng, người trong trại hết lương ăn. Ngự
Bắc vương tự biết kế cùng thế khuất, bèn bắt Trung Quốc vương đem nộp.
Nhà vua bèn sai chém Trung Quốc vương, tha tội cho Ngự Bắc
vương, rồi đem quân đánh Ngự Man vương Lê Long Đinh ở Phong Châu. Ngự Man vương
phải chịu hàng. Quân về đến Đằng Châu, đổi tên châu ấy làm phủ Thái Bình. Từ đấy
về sau các vương và giặc cướp đều hàng phục cả.
Chuyến đi này khi quân triều đình đánh nhau với người trại
Phù Lan, chợt thấy trạm báo tin là giặc Cử Long vào cướp đã đến cửa biển Thần Đầu
(nay là cửa biển Thần Phù). Vua Lê Long Đĩnh về đến sông Tham đi sang Ái Châu để
đánh quân Cử Long.
Năm 1006, nhà vua phong cho con trưởng là Sạ làm Khai Phong
vương, con nuôi là Lê Thiệu Lý làm Sở vương cho ở bên tả; Lê Thiệu Huân làm Hán
vương cho ở bên hữu. Ông còn có người con nuôi khác là Lê Ác Thuyên, phong làm
Tam Nguyên vương vào năm 1008.
Theo sử gia Ngô Thì Sĩ, hệ quả của việc anh em Long Đĩnh
tranh giành ngôi vua đã khiến cho Lý Công Uẩn mạnh lên: Quân Tứ sương (do Lý
Công Uẩn chỉ huy) chỉ đứng ngoài bên xem ai thành ai bại, để cho người họ khác
vào nắm binh quyền, Công Uẩn dần dần mạnh lên, rồi họ Lý nổi lên không ai ngăn
nổi.
Sự nghiệp trị vì
Ngoại giao
Nghe tin Lê Đại Hành băng hà, một số quan lại ở vùng biên ải
phía Nam của Trung Quốc đã dâng thư về triều, thúc giục Hoàng đế nhà Tống nhanh
chóng lợi dụng cơ hội thuận tiện này để xuất quân sang đánh chiếm Đại Cồ Việt.
Vua Tống không nghe, cho rằng: Họ Lê thường sai con sang chầu, góc biển ấy vẫn
được yên, chưa từng bất trung, bất thuận. Nay nghe tin Lê Hoàn mới mất, chưa có
lễ thăm viếng mà đã vội đem quân đánh kẻ đang có tang, đó chẳng phải là việc
làm của đấng vương giả.
Năm 1006, Lê Long Đĩnh cho sửa đổi quan chế và triều phục của
các quan văn võ và tăng đạo theo đúng như nhà Tống.
Năm 1007, ông sai em là Minh Xưởng và Chưởng Thư ký là Hoàn
Thành Nhã dâng tê ngưu trắng cho nhà Tống, xin kinh Đại Tạng. Nhà Tống phong
cho vua làm Giao Chỉ quận vương, lĩnh Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ và cho tên là
Chí Trung, ban tước cho Minh Xưởng và Thành Nhã.
Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, năm 1009, ông lại xin được đặt
người coi việc tại chợ trao đổi hàng hóa ở Ung Châu thuộc Trung Hoa, nhưng Tống
đế chỉ cho mua bán ở chợ trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng, là
những nơi giáp vùng biên giới thôi. Theo An Nam chí lược, vua Tống cho rằng
Giao Chỉ thường cướp phá vùng bờ biển nước Tống, nay cho buôn bán ở Ung Châu
không tiện, cứ theo lệ cũ là trao đổi hàng hóa tại Liêm Châu và trấn Như Hồng.
Tống sử có ghi lại là "Chí Trung mới 26 tuổi nhưng tàn
nhẫn bạo ngược bất pháp, người trong nước không theo", nhưng không ghi cụ
thể những hành vi tàn nhẫn bạo ngược đó là gì.
Phát triển kinh tế
Khi Hoàng đế đi Ái Châu, đến sông Vũ Lung. Tục truyền: người
lội qua sông này phần nhiều bị hại, nhân thể vua sai người bơi lội qua lại đến
ba lần, không hề gì, xuống chiếu đóng thuyền để ở các bến sông Vũ Lung, Bạt Cừ,
Động Lung bốn chỗ để chở người qua lại.
Khi ông đến Hoàn Giang, sai Phòng át sứ là Hồ Thủ Ích đem
hơn 5 nghìn quân của châu Hoan Đường sửa chữa đường từ sông Châu Giáp đến cửa
biển Nam Giới để quân đi cho tiện. Ông cũng sai dân Ái Châu đào kênh, đắp đường
từ cửa Vân Long qua Đỉnh Sơn đến sông Vũ Lũng.
Thỉnh kinh về Đại Cồ Việt
Sử chép: Mùa xuân năm Đinh Mùi (1007), Lê Long Đĩnh sai em
là Minh Xưởng và Chưởng Thư ký là Hoàng Thành Nhã đem con tê trắng sang biếu
nhà Tống, dâng biểu xin Cửu kinh và kinh sách Đại Tạng".
Trong Việt Nam Phật giáo sử lược, thiền sư Thích Mật Thể viết:
Niên hiệu Ứng Thiên thứ 14 (1008), sau khi nước ta đã hòa với Tống rồi, vua Đại
Hành đúng ra là Ngọa Triều] sắc ông Minh Xưởng và ông Hoàng Thành Nhã sang sứ
nước Trung Hoa, cống hiến đồ thổ sản và xin vua Tống ban cho bộ "Cửu
kinh" và "Đại Tạng kinh". Vua Tống trao cho những bộ ấy và cho sứ
giả đưa về. Đó là lần đầu tiên nước ta cho người sang cầu kinh bên Trung Hoa vậy.
Cửu kinh gồm: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh
Xuân Thu, Hiếu Kinh, Luận Ngữ, Mạnh Tử và Chu Lễ; là 9 bộ sách vĩ đại, nền tảng
của văn minh Trung Hoa lần đầu tiên nhập vào Việt Nam theo con đường chính thức
(trước đó các sách trên vẫn tồn tại trong giới nho sĩ) là do Lê Long Đĩnh lấy về.
Còn kinh Đại Tạng là một bộ sách vĩ đại được rất nhiều thế hệ các cao tăng
Trung Hoa sưu tầm và dịch thuật suốt 1.000 năm, từ thế kỷ thứ nhất đến cuối thế
kỷ thứ 10 mới in thành sách lần đầu tiên gồm 5.000 quyển.
Dẹp loạn
Lê Đế Long Đĩnh trong 4 năm cầm quyền đã 5 lần cầm quân đánh
dẹp ở các vùng đất thuộc Hưng Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh ngày nay:
Lần thứ nhất (1005): dẹp tan bạo loạn, tranh giành giữa các
anh em trong hoàng tộc để thu phục mọi người. Từ đấy về sau các Vương và giặc
cướp đều hàng phục.
Lần thứ hai (1005): khi quan quân đang đánh nhau với người ở
trại Phù Lan chợt thấy trạm báo tin là giặc Cử Long vào cướp đã đến cửa biển Thần
Phù (Ninh Bình). Ông về đến sông Tham, đi sang Ái Châu để đánh giặc Cử Long.
Lần thứ ba (1008): đánh người Man ở hai châu Đô Lương và Vị
Long.
Lần thứ tư (1008): đánh giặc ở Hoan châu và châu Thiên Liêu.
Lần thứ năm (1009): tháng 7, đánh giặc ở các châu Hoan Đường
và Thạch Hà.
Qua đời
Lê Long Đĩnh cai trị được 4 năm, đến tháng 10, ngày Tân Hợi,
năm Kỷ Dậu (tức ngày 19 tháng 11 năm 1009) thì qua đời, hưởng dương 24 tuổi.
Long Đĩnh mất, con trai là Lê Cao Sạ còn bé, Lê Minh Đề, Lê Minh Xưởng tranh cướp
ngôi vua, bị Lý Công Uẩn giết. Dưới sự vận động và sắp đặt của quan Chi hậu Đào
Cam Mộc, triều thần đã tôn Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế, sáng lập ra triều đại
nhà Lý.
Ban thờ vua Lê Long Đĩnh trong đền thờ vua Lê Đại Hành ở Hoa Lư
Lê Long Đĩnh được đúc tượng và thờ cúng cùng với vua cha Lê
Đại Hành tại 4 địa điểm là đền Vua Lê Đại Hành ở khu di tích Cố đô Hoa Lư (Ninh
Bình), đền Lăng ở quê hương Liêm Cần; đình Yến ở xã Thanh Hà đều thuộc Thanh
Liêm (Hà Nam) và Di tích quốc gia đình An Lãng, xã Văn Tự, Thường Tín, Hà Nội.