Lý Anh Tông (chữ Hán: 李英宗) từ tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175 là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138 tới năm 1175, tổng cộng 37 năm.
Vua Anh Tông tên thật là Lý Thiên Tộ, con thứ của vua Lý Thần
Tông. Năm 1138, vua Thần Tông mất sớm, nên thái tử Thiên Tộ mới 3 tuổi đã lên
ngôi, lấy hiệu là Anh Tông. Mẹ ông là Thái hậu họ Lê được tôn làm nhiếp chính.
Nhưng bản thân thái hậu lại dựa vào Thái úy Đỗ Anh Vũ, một đại thần chuyên quyền,
khiến nhiều quan lại căm ghét. Năm 1150, một số tôn thất và quan viên làm binh
biến bắt Đỗ Anh Vũ, nhưng thái hậu gây sức ép buộc nhà vua phục chức cho ông
ta.
Ngay sau đó, Đỗ Anh Vũ mở đường tổ chức các cuộc thanh trừng
đẫm máu đối với những người chống đối. Kể cả khi vua Anh Tông đã trưởng thành,
Đỗ Anh Vũ vẫn nắm đại quyền trong triều.
Năm 1158, Đỗ Anh Vũ chết, vua Anh Tông phong Tô Hiến Thành
làm thái úy. Tô Hiến Thành giúp Anh Tông rất đắc lực; tiến hành đem quân đi tuần
nơi biên giới, đánh quân Chiêm Thành, Ngưu Hống, ngăn Ai Lao xâm nhập biên
cương phía tây. Vua Anh Tông còn đích thân vi hành khắp các xứ, biết sự đau khổ
của dân gian cũng như đường đi xa gần.
Nhà vua đặt ra Xạ Đình, sai các quan võ hàng ngày luyện tập
binh pháp. Cuối đời, vua Anh Tông lập hoàng tử thứ 6 là Lý Long Trát làm thái tử,
vì con trưởng là Lý Long Xưởng ve vãn cung nữ của cha. Khi vua Anh Tông chết
năm 1175, Long Trát lên ngôi khi mới 2 tuổi, tức vua Lý Cao Tông.
Thân thế
Ông tên thật là Lý Thiên Tộ (李天祚), sinh tháng 4 năm Bính Thìn
(1136) tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội), là con trai thứ hai của Lý Thần Tông, mẹ
là Cảm Thánh Phu nhân Lê thị, xuất thân từ dòng họ Lê ở châu Chân Đăng.
Năm 1138, tháng 9, Thần Tông Hoàng đế bệnh nặng. Cảm Thánh
Phu nhân cùng hai vị phu nhân là Nhật Phụng Phu nhân và Phụng Thánh Phu nhân
đút lót Tham tri chính sự Từ Văn Thông, và dặn rằng: "Nếu có vâng mệnh vua
thảo di chiếu thì chớ nên bỏ lời của ba phu nhân". Văn Thông nhận lời. Khi
Thần Tông ốm nặng, sai soạn di chiếu, Văn Thông chần chừ không viết.
Ba phu nhân vào khóc lóc, nói rằng: "Bọn thiếp nghe người
xưa lập con nối thì lập con đích chứ không lập con thứ; Thiên Lộc là con nàng hầu
yêu, nếu cho nối ngôi thì ả mẫu thân lại sinh lòng ghen ghét tất tiếm lấn, làm
hại mẹ con thần thiếp. Như thế chúng thiếp làm thế nào được?"
Thần Tông Hoàng đế cho là phải, xuống chiếu rằng:
"Hoàng tử Thiên Tộ tuy tuổi còn thơ ấu, nhưng là con đích, thiên hạ đều biết,
nên cho nối nghiệp của trẫm, còn Thái tử Thiên Lộc thì phong làm Minh Đạo vương".
Theo nghiên cứu của các nhà sử học Hàn Quốc và Việt Nam, khi
Lý Thần Tông qua đời, Thái tử Lý Thiên Tộ mới 3 tuổi, triều thần muốn tôn Kiến
Hải vương Lý Dương Côn, một người con nuôi khác của Lý Nhân Tông, vốn là con đẻ
của Thành Quảng hầu. Nhưng lúc đó, mẹ ông là Cảm Thánh Phu nhân dựa vào Đỗ Anh
Vũ là người nắm binh quyền, đã loại hết các địch thủ của Thiên Tộ, nên ông được
đưa lên ngôi.
Ngày 26 tháng 9 năm đó, Thần Tông Hoàng đế băng hà. Con trai
là Thái tử Thiên Tộ kế vị, tức là Lý Anh Tông. Cảm Thánh Phu nhân được tôn làm
Hoàng thái hậu, tôn hiệu là Hiến Chí Hoàng thái hậu (憲至皇太后), ở Quảng
Từ cung (瀇慈宮).
Trị vì
Lý Anh Tông lên kế vị khi mới 3 tuổi, Lê Thái hậu có quyền
nghe việc chính sự. Theo đó, Đỗ Anh Vũ do là em trai của Chiêu Hiến Hoàng thái
hậu Đỗ thị nên được Lê Thái hậu phong làm Phụ quốc Thái úy, kiêm thêm Cung điện
Lệnh tri Nội ngoại sư, nắm quyền quyết đoán mọi việc.
Theo ĐVSKTT, trong cung Lê Thái hậu khi đó lại tư thông với
Đỗ Anh Vũ, khiến triều đình bất bình. Bên cạnh đó, Anh Vũ còn sai vợ là Tô phu
nhân ra vào cung cấm hầu hạ Đỗ Thái hậu, do đó mà Anh Vũ mặc nhiên qua lại với
Lê Thái hậu, nhân thế lại càng kiêu rông, ở triều đình thì khoát tay lớn tiếng,
sai bảo quan lại thì hất hàm ra hiệu, mọi người đều liếc nhau nhưng không ai
dám nói.
Loạn Thân Lợi
Người thầy bói Thân Lợi tự xưng là con của Lý Nhân Tông, đem
đồ đảng theo đường thủy đến châu Thái Nguyên, từ châu Tây Nông kéo ra, qua châu
Lục Lệnh, vào chiếm châu Thượng Nguyên và châu Hạ Nông, thu nạp những kẻ trốn
tránh, chiêu mộ thổ binh, có đến hơn 800 người, cùng mưu làm loạn.
Năm 1141, mùa xuân, tháng giêng, Thân Lợi tiếm xưng là Bình
Vương, lập vợ cả, vợ lẽ làm Vương hậu và Phu nhân, con làm Vương hầu, cho đồ đảng
quan tước theo thứ bậc khác nhau. Khi ấy đồ đảng của Thân Lợi chỉ hơn nghìn người,
đi đến đâu nói phao là Lợi giỏi binh thuật để hiếp chế người miền biên giới.
Người các khe động dọc biên giới đều khiếp sợ, không dám chống lại.
Tháng 2, Anh Tông sai Gián nghị đại phu Lưu Vũ Nhĩ và Thái
phó là Hứa Viêm theo 2 đường thủy bộ tiến đánh Thân Lợi, bị thua to, tướng sĩ
chết đến quá nửa, phải rút về. Nhân đó, Thân Lợi đánh chiếm thêm Tuyên Hóa, Cảm
Hóa, Vĩnh Thông, Phú Lương, Lợi chiếm giữ phủ trị, ngày đêm hợp bè đảng mưu cướp
kinh sư. Khi đó, Anh Tông phái Đỗ Anh Vũ đem quân chặn đánh, cuộc chiến diễn ra
khốc liệt, quân của Lợi thua, chết không kể xiết. Anh Vũ sai chém lấy đầu.
Tháng 10, Anh Tông lại sai Đỗ Anh Vũ đi đánh châu Lục Lệnh,
bắt được bọn bè đảng của Lợi hơn 2.000 người. Lợi trốn sang châu Lạng, Thái phó
Tô Hiến Thành bắt được Lợi, giao cho Anh Vũ đóng củi giải về kinh sư. Sai Lý
Nghĩa Lâm chiêu tập vỗ yên dư đảng của Lợi. Anh Tông xuống chiếu cho quan Đình
úy xét tội Lợi. Án xét xong, Anh Tông ngự Thiên khánh điện xử tội Lợi và bọn đồng
mưu 20 người, đều xử trảm, những kẻ còn lại đều theo tội nặng nhẹ mà xử, tha
cho những kẻ vì ép buộc mà phải theo.
Loạn Đỗ Anh Vũ
Năm 1150 Anh Tông Hoàng đế đã lên 14 tuổi nhưng Đỗ Anh Vũ vẫn
dựa vào Lê Thái hậu mà chuyên quyền. Chướng mắt quyền thế của họ Đỗ, tướng Vũ
Cát Đái và một số người trong hoàng tộc như Phò mã Dương Tự Minh và Trí Minh
vương đã mang quân bắt giữ, tạo ra binh biến chấn động.
Bọn họ hô to rằng: "Anh Vũ ra vào cấm đình, làm nhiều đều
ô uế, tiếng xấu đồn ra ngoài, không tội gì to bằng. Bọn thần xin sớm trừ đi, khỏi
để mối lo về sau". Bọn họ dùng binh bắt Anh Vũ trói giam ở hành lang Tả
Hưng Thánh, giao cho Đình úy tra xét.
Lê Thái hậu buồn rầu, dùng vàng đút lót cho Vũ Đái và các
người canh giữ, do đó Vũ Đái không giết Anh Vũ. Anh Tông theo lời nghị tội của
các quan, ra chiếu giáng Anh Vũ làm Cảo điền nhi, đi cày ruộng công.
Thái hậu lo buồn, cố nghĩ làm thế nào để phục hồi chức nhiệm
cho Anh Vũ, mới nhiều lần mở hội lớn để xá cho tội nhân, mong Anh Vũ được dự
vào đấy. Anh Vũ được mấy lần xá tội, lại làm Thái úy phụ chính như cũ, càng được
yêu dùng hơn, do đấy chuyên làm oai, làm phúc, sinh sát mà lòng báo thù lúc nào
cũng tỏ rõ, còn sợ rằng bọn quân lại đi bắt bớ phần nhiều không được như ý, mới
dâng hơn một trăm người thủ hạ để làm đô Phụng quốc vệ, người nào phạm tội đều
giao cho đô Phụng quốc vệ đi bắt.
Sau đó, Đỗ Anh Vũ mật tâu với Anh Tông rằng: "Trước kia
bọn Vũ Đái tự tiện đem cấm quân xông vào cung đình, tội ấy không gì to bằng, nếu
không sớm trừng trị, sợ một ngày kia sinh biến, không thể lường được".
Anh Tông thế cô, bèn chuẩn tâu. Anh Vũ sai đô Phụng quốc vệ
đi bắt bọn Vũ Đái giam vào ngục để trị tội. Hạ chiếu giáng Trí Minh vương xuống
tước hầu, Bảo Ninh hầu xuống tước Minh tự, Bảo Thắng hầu xuống tước Phụng chức,
Nội thị là bọn Đỗ Ất 5 người bị "cưỡi ngựa gỗ", bọn Hỏa đầu đô Ngọc
Giai là Đồng Lợi 8 người bị chém ở chợ Tây Giai, bọn Điện tiền Đô chỉ huy Vũ
Đái 20 người chém bêu đầu ở các bến sông, bọn Phò mã lang Dương Tự Minh 30 người
bị tội lưu ở nơi xa độc, những người dự mưu đều bị tội đồ làm điền hoành, khao
giáp.
“Đỗ Anh Vũ ra vào cấm đình, tư thông với mẫu hậu, không tội
gì to bằng. Bọn Vũ Đái nên tâu bày gian trạng rồi bắt giam vào ngục mà giết đi
là phải. Nay lại đem quân đột nhập cửa Việt Thành, hiếp vua nhỏ tuổi, ép lấy
chiếu chỉ. Đến khi bắt được Anh Vũ rồi, lại nhận vàng của thái hậu mà không
nghe lời nói của Nguyễn Dương, đến sau rốt cuộc bị Anh Vũ giết, liên lụy đến mấy
mươi người, thế là nuôi hổ để họa về sau vậy.” Sử thần Lê Văn Hưu bàn
Thân chính
Năm 1158, Đỗ Anh Vũ chết, Lê Thái hậu trao lại quyền hành và
về ở cung riêng. Từ đó, Anh Tông chính thức nắm lại mọi quyền vị, dựa vào Tô Hiến
Thành và những hiền thần khác như Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín để tiến hành
thân chính.
Tô Hiến Thành giúp Anh Tông đánh đông dẹp bắc, giữ cho nước
được yên mà còn luyện tập quân lính kén chọn những người tài giỏi cho làm tướng,
coi quân trị dân. Bởi vậy, nước Đại Việt duy trì được sự hùng mạnh và thịnh vượng
kế thừa được từ các thời trước.
Năm 1164, Tống Hiếu Tông sai sứ sang phong ông làm An Nam quốc
vương.
Năm 1170, ông lập Xạ Đình để tập bắn cung và cưỡi ngựa. Sau
đó, ông sai các quan võ hàng ngày luyện tập phép công chiến phá trận.
Từ năm 1171 đến năm 1172, Anh Tông xa giá đi tới những vùng
núi non hiểm trở trong nước, quan sát sinh hoạt của dân, rồi sai quan lại làm tập
bản đồ nước Đại Việt, soạn ra cuốn sách Nam Bắc phiên giới đề. Tuy nhiên tập bản
đồ đó tới nay không còn.
Phế lập Thái tử
Hoàng tử Lý Long Xưởng (李龍昶) do hoàng hậu thân sinh, vốn
là con trưởng, nên được lập làm Thái tử. Khi ấy, Anh Tông sủng ái Từ Nguyên
phi, nên Hoàng hậu ghen ghét, xui Long Xưởng quyến rũ nhằm đổ tội cho Từ phi,
không dè Từ phi không chịu mà bẩm báo cho Anh Tông. Anh Tông tức giận, xuống
chiếu giáng tội Long Xưởng phạm lỗi tư thông với các phi tần trong cung cấm, phế
truất làm Bảo Quốc vương (保國王).
Một hôm, Anh Tông gọi Tể tướng đến bảo rằng: "Thái tử
là gốc lớn của nước, Long Xưởng đã làm điều trái đạo, trẫm muốn Long Trát nối
giữ nghiệp lớn, nhưng nó còn nhỏ tuổi, sợ không đương nổi, nếu đợi lớn thì trẫm
đã tuổi già suy yếu, biết làm thế nào?" Bấy giờ có nội nhân ẵm hoàng tử thứ
6 Lý Long Trát ra, thấy Anh Tông đội mũ, khóc đòi đội.
Nhà vua chưa kịp tháo mũ đưa cho thì càng khóc to hơn. Anh
Tông bèn tháo mũ đội cho, Long Trát cả cười. Anh Tông càng lấy làm lạ, ý lập
Long Trát làm Thái tử bèn quyết định.
Năm 1175, mùa xuân, Anh Tông sách lập Long Trát làm Hoàng
thái tử, ở Đông Cung. Phong Tô Hiến Thành làm Nhập nội kiểm hiệu Thái phó bình
chương Quân quốc trọng sự, tước Vương, giúp đỡ Đông cung.
Cuối đời
Tháng 4 năm 1175, Anh Tông se mình ốm nặng, Hoàng hậu mẹ của
Bảo Quốc vương Long Xưởng xin lập lại con mình làm người kế nghiệp nhiều lần,
nhưng Anh Tông không đổi ý, nói rằng: "Làm con mà không biết kính trọng đấng
song thân (cha mẹ) thì làm sao làm ông vua yêu dân được ?" Sau đó, ông di
chiếu cho Tô Hiến Thành giúp lập thái tử, công việc quốc gia nhất nhất tuân
theo phép cũ.
Ngày Ất Tỵ, tháng 7 năm Ất Mùi (tức ngày 14 tháng 8 năm
1175), Anh Tông qua đời tại Thụy Quang điện (瑞光殿). Ông trị vì 37 năm, thọ 40
tuổi. Trước khi mất, Anh Tông dặn lại Thái tử Long Cán:
“Nước ta non sông gấm vóc, người giỏi rất thiêng,
châu ngọc quý báu, không gì không có. Nước khác không thể nào bì được. Hãy nên
giữ gìn cẩn thận.” — Lý Anh Tông
Thái tử Long Trát (hoặc
Long Cán) mới 2 tuổi lên nối ngôi, tức là Lý Cao Tông.
Nguồn: Vikipedia/Người Kinh Bắc