Triệu Vũ Đế (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN hoặc 235 TCN - 137 TCN), húy Triệu Đà (chữ Hán: 趙佗), là vua đầu tiên của nước Nam Việt, án ngữ tại Quảng Đông và miền bắc Việt Nam. Ông vốn người Trung Quốc, quê ở huyện Chân Định (真定), quận Hằng Sơn (恒山) (ngày nay là huyện Chính Định (正定), tỉnh Hà Bắc), miền Bắc Trung Quốc.
Triệu Đà là võ tướng theo lệnh Tần Thủy Hoàng dẫn quân xuống
chinh phạt miền Nam (khi đó là lãnh thổ của các bộ tộc Bách Việt). Ông chiếm được
nhiều vùng lãnh thổ (nay là Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam) nhưng
nhà Tần ở Trung Hoa đã diệt vong.
Nhận thấy triều đình trung ương đã sụp đổ, Triệu Đà bèn tách
ra cát cứ, xưng Đế và lập nên nước Nam Việt và cai trị nước Nam Việt suốt giai
đoạn 207-137 TCN.
Sau khi nhà Hán đã làm chủ Trung Hoa, khi về già, Triệu Đà
đã quyết định bỏ việc xưng đế, quy phục nhà Hán (nhưng vẫn xưng Hoàng đế ở
trong Nam Việt). Triệu Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, trong thư ông
đã công nhận rằng mình là người Trung Hoa, và nhà Triệu là chư hầu phục vụ cho
nhà Hán, thay mặt vua Hán để cai trị dân "Man Di" phía Nam (chỉ người
Việt thời đó).
Tiểu sử
Sách Đại Việt sử ký toàn thư dẫn lại ghi chép của Sử ký Tư
Mã Thiên, theo đó Triệu Đà vốn người huyện Chân Định (真定), quận Hằng
Sơn (恒山), đời nhà Tần (ngày nay là huyện Chính Định (正定),
tỉnh Hà Bắc), Trung Quốc.
Triệu Đà là tướng của nhà Tần, được lệnh Tần Thủy Hoàng đem
quân đánh xuống phía Nam, mở rộng lãnh thổ cho nhà Tần. Khi nhà Tần sụp đổ, Triệu
Đà khi đó đang làm quan cai trị ở phía Nam (nay là tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây).
Nhân cơ hội Trung Hoa rối loạn, Triệu Đà tự xưng vương để lập nên nước Nam Việt,
trị vì khoảng từ năm 207 TCN đến năm 137 TCN, xưng là Nam Việt Vũ Vương hay là
Nam Việt Vũ Đế.
Năm mất của Triệu Đà được các nguồn sử liệu thống nhất là
137 TCN. Về năm sinh của Triệu Đà, các nguồn tài liệu đề cập khác nhau. Đại Việt
sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên chép rằng ông sinh năm 258 TCN, tức là
thọ 121 tuổi.
Các nhà nghiên cứu hiện nay lại căn cứ theo một dòng trong
Hán thư của Ban Cố cho biết ông tham gia nam chinh từ năm 20 tuổi và đó là thời
điểm 13 năm trước khi Lưu Bang thành lập nhà Hán (202 TCN), tức là ông sinh năm
235 TCN và tham gia nam chinh từ năm 215 TCN, năm 214 TCN được Tần Thủy Hoàng
phong huyện lệnh Long Xuyên. Theo giả thuyết này, Triệu Đà thọ 99 tuổi.
Bình định đất Lĩnh Nam
Bản đồ các khu vực lẻ tẻ do nhà Tần chiếm được của các nhóm
tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử sau năm 210 TCN.
Bản đồ vùng đất Lĩnh Nam thời Nhị vua Trưng Vương (40-43 sau
Công nguyên).
Sau khi thống nhất bảy nước, Tần Thuỷ Hoàng bắt tay bình định
vùng đất Bách Việt ở Lĩnh Nam.
Năm 218 trước Công Nguyên, Tần Thủy Hoàng sai Đồ Thư (屠睢)[5]
làm chủ tướng, chỉ huy 50 vạn quân đi bình định miền Lĩnh Nam. Khi Đồ Thư chiếm
được vùng đất Lĩnh Nam, Tần Thủy Hoàng lập nên ba quận là Nam Hải (Quảng Đông),
Quế Lâm (đông bắc Quảng Tây) và Tượng quận. Đồ Thư chiếm được nhiều đất đai
nhưng cuối cùng bị tử trận.
Tần Thủy Hoàng sai Nhâm Ngao (壬嚣) cùng Triệu Đà đến cai trị vùng Lĩnh Nam.
Nhâm Ngao làm Quận úy quận Nam Hải. Nam Hải gồm bốn huyện Bác La, Long
Xuyên,[7] Phiên Ngung và Yết Dương; trong đó huyện Long Xuyên có vị trí quan trọng
nhất về địa lý và quân sự, được giao dưới quyền Triệu Đà làm Huyện lệnh.
Sau khi tới thủ phủ Long Xuyên nhậm chức, Triệu Đà áp dụng
chính sách "hoà tập Bách Việt" đồng thời xin Tần Thủy Hoàng di dân 50
vạn người từ Trung Nguyên đến vùng này, tăng cường chính sách "Hoa Việt
dung hợp" (hòa lẫn người Hoa Hạ và người Lĩnh Nam).
Ly khai nhà Tần
Tần Thủy Hoàng chết (210 TCN), Tần Nhị Thế nối ngôi, khởi
nghĩa Trần Thắng, Ngô Quảng nổ ra năm 209 TCN, rồi tiếp theo là chiến tranh
Hán-Sở giữa Lưu Bang và Hạng Vũ (từ năm 206 TCN), Trung Nguyên rơi vào cảnh rối
ren loạn lạc.
Tượng Triệu Đà, phía trước Nhà ga đường sắt Hà Nguyên
Năm 208 TCN, Quận uý Nam Hải là Nhâm Ngao bị bệnh nặng, trước
khi chết cho gọi Triệu Đà đang tạm thời làm Huyện lệnh Long Xuyên đến, dặn dò đại
ý rằng:
Vùng đất Nam Hải có núi chắn, có biển kề, rất thuận lợi cho
việc dựng nước và phòng thủ chống lại quân đội từ Trung Nguyên (tức khu vực
trung ương Trung Quốc) đánh xuống, đồng thời chính thức bổ nhiệm Triệu Đà nối
quyền cai trị quận Nam Hải.
Không lâu, Nhâm Ngao chết, Triệu Đà gửi lệnh đến quan quân
các cửa ngõ Lĩnh Nam, canh giữ phòng chống quân đội Trung nguyên xâm phạm, và
nhân dịp đó, giết hết những quan lại nhà Tần bổ nhiệm ở Lĩnh Nam, cho tay chân
của mình thay vào những chức vụ đó.
Chinh phục Âu Lạc, lên ngôi vua nước Nam Việt
Bản đồ nước Nam Việt
Sử sách ghi chép không thống nhất về việc Triệu Đà đánh chiếm
Âu Lạc, cả về cách đánh lẫn thời gian và địa lý.
Sử ký Tư Mã Thiên ghi chép vắn tắt rằng Triệu Đà dùng tài
ngoại giao và đút lót mua chuộc các thủ lĩnh người Mân Việt, Tây Âu Lạc mà thu
phục các vùng này vào thời điểm "sau khi Lã hậu chết" (năm 180 TCN).
Các sách giáo khoa tại Việt Nam hiện nay đều thống nhất lấy thời điểm ước lệ
này trong Sử ký và lấy năm ngay sau 180 TCN là 179 TCN (Xem mục về Niên đại và
tư liệu ở dưới).
Lần xâm phạm đầu tiên, Triệu Đà đóng quân ở núi Tiên Du (thuộc
tỉnh Bắc Ninh ngày nay) giao chiến với An Dương Vương bị thất bại và bỏ chạy.
Sau này, nhờ sự trợ giúp của các thủ lĩnh làm nội gián cung cấp thông tin bí mật
về bố phòng quân sự và bản đồ địa lý của Âu Lạc, Triệu Đà tiếp tục tiến hành âm
mưu xâm lược.
Theo truyền thuyết ghi rằng Triệu Đà lập mưu gả con trai là
Trọng Thủy cho con gái An Dương Vương là Mỵ Châu để trộm nỏ thần và bản đồ Loa
Thành. Sau khi kết thông gia, cả hai lập ranh giới từ sông Bình Giang (nay là
sông Đuống) trở lên phía Bắc thuộc quyền cai trị của Triệu Đà, trở về phía Nam
thuộc quyền cai trị của An Dương Vương.
Cần lưu ý là truyền thuyết này không có bất cứ bằng chứng lịch
sử nào. Triệu Đà không có con nào là Trọng Thủy. Theo truyền thuyết thì nỏ thần
của thần Kim Quy không hoạt động nữa sau khi bị lấy cái móng thần làm lẫy. Nếu
nỏ sát thương cao có thật thì không thể hiệu quả chỉ dựa trên cái lẫy, và không
thể chỉ hiệu quả đối với một cái nỏ duy nhất. Ngoài ra, trong số 436 người được
khắc trên các trống đồng có 175 người cầm vũ khí (40,1%). Các loại vũ khí gồm:
giáo, rìu, cung, dao găm và mộc, không có nỏ.
Năm 208 TCN, Triệu Đà đánh thắng Âu Lạc của An Dương Vương,
sáp nhập Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập nước Nam Việt. Theo truyền thuyết của người
Việt, sau khi nghe tin Mỵ Châu bị An Dương Vương giết, Trọng Thủy nhảy xuống giếng
tự vẫn để trọn tình với vợ là Mỵ Châu.
Năm 207 TCN, Triệu Đà cất quân đánh chiếm quận Quế Lâm, Tượng
quận; tự xưng "Nam Việt Vũ Vương".
Năm 206 TCN, nhà Tần diệt vong.
Nước Nam Việt bấy giờ, bao gồm từ núi Nam Lĩnh, phía tây đến
Dạ Lang, phía nam đến dãy Hoành Sơn, phía đông đến Mân Việt. Thủ đô nước Nam Việt
lúc ấy là thành Phiên Ngung (thành phố Quảng Châu ngày nay).
Một số tài liệu nghiên cứu ngày nay cho rằng vùng đất miền Bắc
Việt Nam bây giờ nằm trong quận Tượng (象郡) của nước Nam Việt lúc đó.
Thần phục nhà Hán
Nước Nam Việt phía Tây giáp hai nước Dạ Lang và Câu Đinh,
phía Đông giáp nước Mân Việt, phía Nam giáp với dãy Hoành Sơn, phía Bắc giáp
nhà Hán.
Trải qua chinh chiến, Lưu Bang đã lập được chính quyền nhà
Tây Hán (202 TCN), bình định Trung Nguyên, bao gồm cả thế lực thu phục được của
Hạng Vũ. Lưu Bang quyết định không lấy chiến tranh đối phó với nước Nam Việt để
dân chúng Trung nguyên khỏi mất người mất của sau bao năm loạn lạc.
Năm 196 TCN, Hán Cao Tổ Lưu Bang sai quan đại phu Lục Giả đi
sứ đến nước Nam Việt khuyên Triệu Đà quy phục nhà Hán.
Sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
Vũ Vương vốn là người kiêu căng, có ý không muốn phục nhà
Hán, đến khi Lục Giả sang đến nơi, vào yết kiến Vũ Vương, Vũ Vương ngồi xếp
vành tròn, không đứng dậy tiếp. Lục Giả thấy vậy mới nói rằng: "Nhà vua là
người nước Tần, mồ mả và thân thích ở cả châu Chân Định. Nay nhà Hán đã làm vua
thiên hạ, sai sứ sang phong vương cho nhà vua, nếu nhà vua kháng cự sứ thần,
không làm lễ thụ phong, Hán đế tất là tức giận, hủy hoại mồ mả và giết hại thân
thích của nhà vua, rồi đem quân ra đánh thì nhà vua làm thế nào?" Vũ Vương
nghe lời ấy vội vàng đứng dậy làm lễ tạ, rồi cười mà nói rằng: "Tiếc thay
ta không được khởi nghiệp ở nước Tần, chứ không thì ta cũng chẳng kém gì Hán Đế!"
Được Lục Giả khuyên, Triệu Đà chịu nhận ấn tước Nam Việt
Vương (chúa đất vùng Nam Việt) của Hán Cao Tổ gửi, thần phục nhà Hán, đưa Nam
Việt thành một nước chư hầu (nhưng chỉ trên danh nghĩa) của nhà Hán. Từ đó, Nam
Việt và nhà Hán trao đổi sứ giả và buôn bán. Lưu Bang đã lấy hoà bình mà quy phục
Triệu Đà, không còn mối lo thế lực chống đối nhà Hán ở miền nam nữa.
Xưng đế chống Hán
Hán Cao Tổ Lưu Bang và Hán Huệ Đế Lưu Doanh chết đi, Lã Hậu
nắm quyền, bắt đầu gây sự với Triệu Đà. Lã Hậu ra lệnh cấm vận với nước Nam Việt.
Triệu Đà thấy Lã Hậu có thể qua nước Trường Sa mà thôn tính Nam Việt. Thế là
Triệu Đà bèn tuyên bố độc lập hoàn toàn khỏi nhà Hán, tự xưng "Nam Việt Vũ
Đế" và cất quân đánh nước Trường Sa, chiếm được mấy huyện biên giới của
Trường Sa mới chịu thôi.
Lã Hậu bèn sai đại tướng Long Lư hầu là Chu Táo đi đánh Triệu
Đà. Quân lính Trung Nguyên không quen khí hậu nóng nực và ẩm thấp miền nam, ùn
ùn đổ bệnh, ngay dãy núi Ngũ Lĩnh cũng chưa đi qua nổi. Một năm sau, Lã Hậu chết,
mưu đồ đánh Triệu Đà của quân nhà Hán bỏ hẳn.
Lúc đó Triệu Đà dựa vào tiếng tăm tài quân sự của mình lừng
lẫy cả vùng Lĩnh Nam, lại nhờ tài hối lộ của cải, làm cả Mân Việt và phía Tây
nước Âu Lạc cũ ùn ùn quy thuộc Nam Việt. Lúc ấy nước Nam Việt bành trướng đến mức
cực thịnh. Triệu Đà bắt đầu lấy tên uy Hoàng Đế mà ra lệnh ra oai, thanh thế
ngang ngửa đối lập với nhà Hán.
Lại thần phục nhà Hán
Năm 180 TCN, Lã Hậu chết, Hán Văn Đế Lưu Hằng nối ngôi.
Năm 179 TCN, vua Hán sai người tu sửa mồ mả cha ông Triệu
Đà, cắt đặt hàng năm đúng ngày thờ cúng, ban thưởng chức vụ và của cải cho bà
con Triệu Đà còn ở trong đất Hán. Nghe thừa tướng Trần Bình tiến cử, Lưu Hằng
sai Lục Giả, người từng được Hán Cao Tổ sai sứ đi Nam Việt nhiều lần, làm chức
Thái Trung Đại Phu, lại đi thuyết phục Triệu Đà quy Hán.
Lục Giả đến Nam Việt, lại trổ tài thuyết phục Triệu Đà. Triệu
Đà nghe thuyết phục phải trái hơn thiệt, quyết định bỏ danh hiệu Đế, quy phục
nhà Hán (nhưng vẫn tiếm hiệu xưng Hoàng Đế ở trong nước Nam Việt). Nhân đó, Triệu
Đà viết thư nhờ Lục Giả gửi cho vua Hán, rằng:
“ Man Di đại trưởng lão phu, thần Đà, mạo muội đáng
chết, hai lạy dâng thư lên Hoàng đế bệ hạ. Lão phu vốn là lại cũ ở đất Việt,
Cao Đế ban cho ấn thao làm Nam Việt Vương. Hiếu Huệ Hoàng Đế lên ngôi, vì nghĩa
không nỡ tuyệt nên ban cho lão phu rất hậu.
Cao Hậu lên coi việc nước lại phân biệt Hoa - Di, ra lệnh
không cho Nam Việt những khí cụ làm ruộng bằng sắt và đồng; ngựa, trâu, dê nếu
cho thì cũng chỉ cho con đực, không cho con cái.
Lão phu ở đất hẻo
lánh, ngựa, trâu, dê đã già. Tự nghĩ nếu không sắm lễ vật cúng tế, thì tội thực
đáng chết, mới sai quan Nội sử (內使)
là Phan (潘), quan Trung úy (中尉) là Cao (高),
quan Ngự sử (御史) là Bình (平), ba bọn dâng thư tạ lỗi,
nhưng đều không thấy trở về.
Lại nghe đồn rằng, phần mộ của cha mẹ lão phu bị đập phá,
anh em họ hàng đều bị giết. Vì vậy, bọn lại bàn nhau rằng: "Nay bên trong
không được phấn chấn với nhà Hán, bên ngoài không lấy gì để tự cao khác với nước
Ngô".
Vì vậy mới đổi xưng hiệu là Đế, để tự làm Đế nước mình,
không dám làm điều gì hại đến thiên hạ. Cao Hoàng Hậu nghe tin cả giận, tước bỏ
sổ sách của Nam Việt, khiến cho việc sai người đi sứ không thông.
Lão phu trộm ngờ là vì Trường Sa Vương gièm pha, cho nên mới
đem quân đến đánh biên giới. Lão phu ở đất Việt 49 năm, đến nay đã ẵm cháu rồi,
những vẫn phải dậy sớm, ngủ muộn, nằm không yên chiếu, ăn không biết ngon, mắt
không trông sắc đẹp, tai không nghe tiếng chuông trống, chỉ vì không được làm
tôi nhà Hán mà thôi.
Nay may được bệ hạ có lòng thương đến, được khôi phục hiệu
cũ, cho thông sứ như trước, lão phu dù chết xương cũng không nát. Vậy xin đổi
tước hiệu, không dám xưng Đế nữa. Kính cẩn sai sứ giả dâng một đôi ngọc bích trắng,
1.000 bộ lông chim trả, 10 sừng tê, 500 vỏ ốc màu tía, 1 giỏ cà cuống, 40 đôi
chim trả sống, 2 đôi chim công. Mạo muội liều chết, hai lạy dâng lên Hoàng đế bệ
hạ.”
Kể từ đó đến đời Hán Cảnh Đế, Triệu Đà một mực xưng thần,
hàng năm cứ mùa Xuân và mùa Thu, đều đưa đoàn sứ đến Trường An triều cống hoàng
đế nhà Hán, chịu mệnh lệnh làm chư hầu (trên danh nghĩa) của nhà Hán.
Năm 137 TCN, Nam Việt Vương Triệu Đà qua đời, sống được ước
chừng hơn trăm tuổi (theo Đại Việt Sử ký Toàn thư là 121 tuổi), chôn ở Phiên
Ngung (tức thành phố Quảng Châu ngày nay).
Triệu Đà chết đi, con cháu tiếp tục được bốn đời vua Nam Việt,
cho đến năm 111 trước Công Nguyên mới bị nhà Hán chiếm.
Ảnh hưởng lịch sử
Triệu Đà vốn là quan võ của nhà Tần, rồi được Tần Thủy Hoàng
bổ nhiệm làm Huyện lệnh huyện Long Xuyên trong quận Nam Hải mà Nhâm Ngao làm Quận
uý. Triệu Đà lập nên nước Nam Việt, độc lập với nhà Tần, cai trị nước Nam Việt
67 năm, từ năm 203 trước Công nguyên tới năm 137 trước Công nguyên, rồi truyền
ngôi cho cháu là Triệu Muội.
Triệu Đà thực thi chính sách "hoà tập Bách Việt"
nhằm thống nhất các bộ tộc Bách Việt và chính sách "Hoa - Việt dung hợp"
nhằm đồng hoá dân người Hoa và Lĩnh Nam tại lãnh thổ nước Nam Việt.
Theo khảo sát dân số thì cuối thời Nam Việt, cả nước này có
1,3 triệu dân, trong đó có khoảng 100 ngàn người Hoa di cư từ phía Bắc. Tuy chỉ
chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng người Hoa nắm giữ hầu hết chức vụ chủ chốt trong triều
đình Nam Việt.
Về sau triều đình có tuyển thêm người bản xứ như Lữ Gia,
nhưng con số này vẫn rất ít, và cũng chỉ tuyển những người tinh thông chữ Hoa,
biết nói tiếng Hoa (tức là đã "Hán hóa") mà thôi. Như vậy cho thấy
nhà Triệu vẫn coi mình là triều đại của người Hoa, không coi người Việt là
ngang hàng với người Hoa.
Tranh luận về vai trò của nhà Triệu và nước Nam Việt
Nhà Triệu là một triều đại, hay một giai đoạn lịch sử gây
nhiều tranh luận cho giới nghiên cứu sử học Việt Nam. Sử học Việt Nam từ trước
đến nay đều có hai quan điểm trái ngược nhau:
Triệu Vũ Đế đánh bại An Dương Vương, sáp nhập Âu Lạc vào Nam
Việt là chuyện nội bộ nước Việt, nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt
Nam. Nhà Triệu mất là khởi đầu thời kỳ Bắc thuộc.
Triệu Đà là người phương Bắc, quê quán ở Trung Nguyên (nay
là tỉnh Hà Bắc, thuộc lưu vực sông Hoàng Hà ở Trung Quốc)[17] theo lệnh Tần Thuỷ
Hoàng đem di dân người Hoa Hạ (sau này gọi là người Hán) xuống vùng Lĩnh Nam
(là nơi cư trú của các bộ tộc Bách Việt) và được làm Huyện lệnh Long Xuyên quận
Nam Hải mới khai hoá, khi nhà Tần mất thì mới tách ra cát cứ, do đó Triệu Đà là
kẻ ngoại bang đến xâm lược nước Âu Lạc. An Dương Vương mất nước là mở đầu thời
kỳ Bắc thuộc.
Xoay quanh vấn đề Triệu Đà và nhà Triệu, mấu chốt là thế giới
quan nhìn nhận của nhà sử học. Những người đề cao thuyết Thiên mệnh của Nho
giáo (cho rằng ngôi vị là do "Trời định", ai xưng đế ở vùng đất nào
thì nghiễm nhiên được coi là vua, nắm giữ "Thiên Mệnh" của vùng đất
đó, bất kể xuất thân thuộc dân tộc nào) thì sẽ nhìn nhận Triệu Đà là vua Việt
Nam, đây là cách nhìn của nhiều sử gia Việt Nam thời phong kiến.
Ngược lại, những nhà sử học có tư duy nhấn mạnh chủ quyền quốc
gia - đặc tính dân tộc, coi trọng nguồn gốc xuất thân, tính dân tộc của người cầm
đầu chính quyền, bản chất của bộ máy triều đình và không công nhận thuyết
"Thiên Mệnh" thì sẽ coi Triệu Đà là triều đại xâm chiếm của phương Bắc
(bởi Triệu Đà vốn là người Trung Hoa, quan lại nước Nam Việt hầu hết là người
Trung Hoa, ngôn ngữ và thể chế cung đình cũng là Trung Hoa, còn người Việt chỉ
là đối tượng bị cai trị). Đây là cách nhìn của các sử gia thời hiện đại.
Những địa điểm gắn với Triệu Đà
Tượng Triệu Đà tại huyện Chính Định, địa cấp thị Thạch Gia
Trang, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc.
Thành phố Thạch Gia Trang (石家庄) ở tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc:
huyện lỵ Chính Định ở góc nam Thạch Gia Trang là nơi sinh của Triệu Đà, thời
nhà Tần có tên là huyện Chân Định quận Hằng Sơn. Thị trấn Triệu Lăng Phu (赵陵铺镇) ở góc nam quận
Tân Hoa (新华区)
của thành phố Thạch Gia Trang có mộ tổ tiên của Triệu Đà do Hán Vũ Đế đời Tây
Hán xây để vỗ về Triệu Đà, ngày nay vẫn còn bia mộ.
Huyện Long Xuyên (龙川) ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc: thời
nhà Tần là huyện Long Xuyên quận Nam Hải (南海), nơi Triệu Đà làm Huyện lệnh
sáu năm sau khi bình định đất Lĩnh Nam. Nguyên trị sở huyện này được đặt tên là
Thị trấn Đà Thành (佗城镇) hay còn gọi là "Thành cũ Triệu Đà" (赵佗故城) để
tưởng niệm Triệu Đà.
Thành phố Quảng Châu ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc: thời nhà
Tần là huyện Phiên Ngung (番禺), thủ phủ quận Nam Hải, nơi
Triệu Đà làm Quận uý bốn năm. Sau khi nhà Tần diệt vong, Triệu Đà vẫn lấy Phiên
Ngung làm thủ phủ, lập nên nước Nam Việt. Phiên Ngung cũng là nơi chôn cất Triệu
Đà.
Đền thờ
Nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc có đền
miếu thờ cúng ông:
Đình thờ Thành hoàng Triệu Đà ở xã Xuân Quan, huyện Văn
Giang, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. Xưa kia đây là nơi Triệu Đà cho xây dựng điện
Long Hưng.
Đền Đồng Xâm ở xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái
Bình, Việt Nam thờ Triệu Đà và phu nhân Trình thị.
Nhiều nơi xung quanh khu vực Cổ Loa (huyện Đông Anh, Hà Nội,
Việt Nam) như các làng Văn Tinh, Lực Canh (thuộc xã Xuân Canh), Thạc Quả (thuộc
xã Dục Tú) thờ Triệu Đà.
Truyền thuyết dân
gian vùng ven thành Cổ Loa kể lại khi đi đánh An Dương Vương, Triệu Đà đã cho
thuyền ngược sông Hồng và cho đóng quân ở bến sông, nay là đoạn cuối làng Dâu
(hay có tên khác là làng Lực Canh) và đầu làng Văn Tinh, nơi rất gần với ngã ba
Dâu (nơi hợp lưu của sông Đuống và sông Hồng).
Tương truyền, làng Văn Tinh là nơi Triệu Đà đóng đại bản
doanh còn dân làng Lực Canh chỉ làm nhiệm vụ như cắt cỏ ngựa, khuân vác, phục vụ
cho quân đội. Vì thế, đình Văn Tinh được coi là nơi thờ chính còn các nơi khác
chỉ là nơi thờ vọng. Lễ hội làng Văn Tinh được tổ chức từ ngày mùng 6 đến mùng
8 tháng 3 hàng năm để tưởng nhớ Triệu Đà. Ngày 7 tháng 3, nhân dân làng Lực
Canh rước tượng Trọng Thủy đến Văn Tinh với ý nghĩa con về thăm cha.
Chùa làng Hữu Bằng ở xã Ngọc Xá, huyện Quế Võ thờ Triệu Đà
làm Thành hoàng cùng với 9 làng khác chủ yếu nằm trên địa phận huyện Quế Võ và
thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Miếu Nam Việt Vương ở thị trấn Đà Thành, huyện Long Xuyên, địa
cấp thị Hà Nguyên, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc thờ Thành hoàng Triệu Đà. Miếu
được xây dựng từ thời nhà Thanh.
Thời gian thành lập nước Nam Việt
Những mốc năm tháng Triệu Đà lập nước Nam Việt đều không có
sử sách ghi chép lại. Tư liệu ngày nay chỉ căn cứ vào cuốn Sử ký của Tư Mã
Thiên mà suy luận ra. Trước mắt có ba thuyết Triệu Đà lập nước Nam Việt: một
thuyết cho rằng đó là năm 203 TCN, thuyết thứ hai cho rằng vào năm 204 TCN [27]
Riêng sách Đại Việt sử ký toàn thư của sử thần Ngô Sĩ Liên thời Hậu Lê cho rằng
Triệu Đà sáp nhập quận Quế Lâm và nước Âu Lạc vào quận Nam Hải, lập nên nước
Nam Việt vào năm 207 TCN.
Thời gian chinh phục Âu Lạc
Như đã đề cập trong phần sự nghiệp của Triệu Đà, các nguồn sử
liệu xưa không thống nhất về thời điểm nước Âu Lạc bị chinh phục. Giữa các sách
cổ sử của Việt Nam (năm 207 TCN) và Sử ký của Tư Mã Thiên (khoảng 179 TCN)
chênh lệch nhau tới gần 30 năm.
Không rõ các sử gia phong kiến Việt Nam căn cứ vào nguồn tư
liệu nào và cũng không có sự lý giải, kết luận thỏa đáng của các sử gia đương đại
đối với vấn đề này.
Các sách giáo khoa tại Việt Nam hiện nay căn cứ theo tư liệu
của Sử ký để lấy năm 179 TCN. Có lẽ vì Sử ký ra đời chỉ một vài chục năm sau
khi nước Nam Việt mất nên đây được coi là nguồn tài liệu đáng tin cậy hơn.
Cái chết của Trọng Thuỷ
Trọng Thủy là con trai Triệu Đà, không được Sử ký đề cập đến.
Tên của Trọng Thủy chỉ được nhắc đến trong các sách sử và truyền thuyết của Việt
Nam. Tuy nhiên, giữa các tài liệu này cũng có những điểm dị biệt.
Sử cũ theo cách nói của truyền thuyết về chuyện nỏ thần và
việc làm rể của Trọng Thủy nhằm đánh cắp nỏ thần, quyết định việc mất còn của
Âu Lạc. Đại Việt Sử ký Toàn thư chép y nguyên như truyền thuyết cho rằng sau
khi chiếm được Âu Lạc, Thủy thấy vợ chết bèn chết theo.
Tuy nhiên, cũng Đại Việt Sử ký Toàn thư, lại chép con Thủy
là Triệu Hồ nối ngôi Triệu Đà năm 137 TCN, Hồ chết năm 125 TCN thọ 52 tuổi, tức
là sinh năm 176 TCN, sau khi Thủy chết tới 33 năm. Như vậy các sử gia phong kiến
đã nhầm lẫn tình tiết này.
Dù theo thuyết của Sử ký cho rằng phía Tây nước Âu Lạc mất
năm 179 TCN đi nữa thì khoảng cách giữa khi Trọng Thủy chết với thời gian Triệu
Hồ sinh ra vẫn là bốn năm. Các nguồn tài liệu có nhắc đến Thủy (trừ Sử ký) đều
nói Hồ là con Thủy nhưng không nhắc đến người con trai nào khác của Triệu Đà.
Do đó, việc các nhà nghiên cứu nghi ngờ Trọng Thủy chết theo
vợ là hoàn toàn có cơ sở. Có lẽ đó là lý do khiến sách Khâm định Việt sử thông
giám cương mục (viết sau Đại Việt Sử ký Toàn thư) chỉ nhắc tới việc Trọng Thủy
làm rể mà không nhắc tới việc Thủy chết theo Mỵ Châu. Cũng có thể sau khi về nước
và sinh ra Triệu Hồ thì Trọng Thủy mới tự sát. Như vậy Trọng Thủy phải còn sống
ít nhất đến năm 177 TCN.