“ Văn Lang thành cổ sơn trùng điệp/Ông Trọng từ thâm vân đạm nồng” - Câu thơ trên là của nhà thơ Phạm Sư Mạnh sáng tác khoảng từ năm 1369 –1370, ca ngợi cảnh đẹp của Đình Chèm. Đây là ngôi đình tồn tại hàng ngàn năm bên bờ sông Hồng, được coi là một trong số ít những ngôi đình cổ nhất Việt Nam.
Ai đã đến làng Chèm, xã Thụy Phương, Từ Liêm, Hà Nội hẳn sẽ để lại một niềm thương nhớ về một ngôi làng cổ yên bình nằm bên bờ sông Hồng hùng vĩ. Những ngôi nhà cổ nằm nép mình trong những khu vườn cây trái, những tường gạch rêu phong và nét hiền hòa thân quen của một ngôi làng ven đô vẫn còn hiển hiện nơi Làng Chèm có những sản vật nổi tiếng đã đi vào ca dao Việt Nam: “Cỗ sang nem Vẽ, giò Chèm/ Anh giã, em gói nên duyên vợ chồng”.
Đình Chèm nằm ngay sát bờ sông Hồng, với cảnh trí rất đặc biệt, một bên là song Hồng cuộn đỏ hung vĩ, một bên là cảnh sắc hiền hoà xanh mướt giờ đây trở nên hiếm hoi ở Hà Nội. Đình nằm trên diện tích gần 2 mẫu, dáng uy nghi theo thế chữ đinh với những cây cột trụ to. Những mái cong của ngôi đình được phủ lên một lớp rêu phong cổkính. Đình Chèm được xây dựng theo lối kiến trúc nội công ngoại quốc, chắc chắnvà công phu, bên trong đình, các cột, mái được chạm trổ tinh vi, bên ngoài có tam quan, có bốn cột đồng trụ. Gian trong cùng của ngôi đình có hai bức tượng Thượng Đẳng Thiên Vương cao 2 trượng và bức tượng công chúa nước Tần - Hoàng phi Bạch Tỉnh Cung cao 8 trượng bằng gỗ sơn son thếp vàng tạc năm 1888. Hiện ở Đình Chèm vẫn còn lưu giữ được nhiều hình chạm khắc gỗ phong cách thế kỷ 18, cùng chiếc lư hương ngàn Ngoài Đình Chèm là nơi thờ tự chính, Đức thánh Lý Ông Trọng còn được phối thờ cùng Thục phán An Dương Vương tại đền Cổ Loa ( Đông Anh – Hà Nội) và thờ vọng tại Đình các thôn Hoàng Xá, Hoàng Liên ( xã Liên Mạc – Từ Liêm – Hà Nội), chùa La Tinh ( xã Đông La – Hoài Đức – Hà Nội) và nhiều địa phương khác.
Cùng với nét kiến trúc nghệ thuật cổ kính, đình Chèm còn mang trong mình sự tích.về một vị tướng tài đức trọng có công dẹp giặc cứu nước. Đình thờ Thượng Đẳng Thiên vương Lý Ông Trọng và Hoàng phi Bạch Tĩnh Cung sống vào thời An Dương Vương.
Chèm (có thuyết cho rằng phải viết là Trèm) là tên nôm, tên chữ là Thụy Điềm, sau đổi là Thụy Hương, rồi lại đổi là Thụy Phương. Chữ Chèm, Trèm, tiếng Việt cổ là T’lem, và khi đọc theo lối Hán hoá là Từ Liêm, có thể coi đó là nguồn gốc tạo nên tên gọi huyện Từ Liêm ngày nay.
Làng Chèm xa xưa có người họ Lý tên Thân, hiệu là Ông Trọng. Ông có vóc dáng to lớn hiên ngang. Gặp lúc Hùng Duệ Vương xuống chiếu tuyển người tài ra giúp nước, huyện Từ Liêm tiến cử Lý Thân. Duệ Vương rất hài lòng và phong cho chức Chỉ huy sứ. Ngài đã giúp vua dẹp giặc, mở mang bờ cõi.Sang thời An Dương Vương, nhà Tần bị giặc Hung Nô quấy phá, vua Tần sai sứ sang cầu Thục Phán cho tướng tài sang giúp. Vua Thục cử Lý Ông Trọng đi sứ. Nhà Tần, vua Tần phong cho Ngài là Tư Lệnh Hiệu Uý thống suất 10 vạn quân đi đánh giặc. Thắng trận khải hoàn, được vua Tần phong chức Phụ Tín Hầu, gả công chúa cho và giữ ở lại nước Tần, nhưng Lý Thân nhất quyết về lại quê nhà, công chúa nước Tần cũng theo về sống với ông tại làng Chèm cho tới khi mất.
Trong thánh phả nướcViệt, Lý Ông Trọng đứng hàng thứ ba sau Thánh Tản và Thánh Gióng. Đình làng Chèm có lẽ là ngôi đình duy nhất ở nước Nam ta quay hướng về phương bắc. Hình như đó là cách dân Chèm biểu lộ thành ý với bà công chúa sống xa xứ nhưng rất mực yêu chồng được luôn hướng về nơi quê cha đất tổ.
Đặc biệt tại thôn Trạo Thôn, xã Đa Lộc, huyện Ân Thi, Hưng Yên, quê hương của bà Hoàng Thị Kha là thân mẫu Đức Thánh Chèm, việc thờ phụng vẫn được nhân dân 2 quê lưu truyền bằng những hình thức tế lễ rất trang trọng.
Làng Chèm đang đổi thay từng ngày trong sự đi lên của nền kinh tế đất nước nhưng vẫn lưu giữ được những nét văn hóa cũ, nếp sinh hoạt xưa của một làng Việt cổ và ngôi đền cổ kính trong một không gian hài hòa, gợi niềm thương nhớ cho những ai đã từng ghé thăm.