Trầm lắng… Sáo Khui!
Tiếng Sáo Khui và điệu Xa Nớt là nét văn hóa đặc trưng nhất của người Vân Kiều. Từ khi có mặt trên đời, Sáo Khui đã rất "kén" người dùng. Nó chỉ dành cho các bậc trung niên sử dụng và đặc biệt là chỉ dành riêng cho đàn ông.
Khác với các loại sáo khác thường dùng cho các đôi nam nữ bày tỏ tình yêu, hò hẹn trao tình… Sáo Khui thổi lên để kể lại một câu chuyện nào đó. Âm thanh trầm lắng của tiếng sáo làm cho người nghe khi có cảm giác buồn man mác, khi lại thấy vui vui.
Với điệu Xa Nớt, thông thường người thổi Sáo Khui chia làm hai nhóm; hai người thổi sáo là hai người đứng đầu của tốp diễn mỗi khi người bên này thổi lên thì những người ngồi xung quanh cùng hò theo, sau đó lại đổi qua người bên kia thổi (như hò đối đáp). Tiếng sáo cất lên làm réo rắt lòng người, làm cỏ cây, núi rừng phải động lòng thức tỉnh.
Trong lễ Ra Pựt, với điệu Xa Nớt là khi con cháu được nghe kể lại những truyền thống của ông bà tổ tiên dòng họ mình, qua đây giúp con cháu hiểu được truyền thống của gia đình mình, đồng thời nói rõ tình cảm gắn bó máu thịt giữa anh chị em trong dòng họ nội-ngoại (còn gọi Khơi Cù Za).
Còn với đám cưới, Sáo Khui khi cất lên cùng điệu Xa Nớt lại để gia đình hai bên dặn dò con cái của mình. Đó là phải yêu thương đùm bọc, bảo ban nhau trong cuộc sống, ăn ở với nhau đến đầu bạc răng long… chính vì những lẽ đó mà đối với người Vân Kiều tiếng Sáo Khui rất thiêng liêng và hệ trọng.
Trong các gia đình dòng họ có xảy ra xích mích, khi tiếng sáo này cất lên cùng với những điệu Xa Nớt của những bậc cao niên trong làng, bản thì coi như mọi mâu thuẫn đó được tháo gỡ, giải hoà.
Thêm một nét độc đáo nữa của Sáo Khui đó là khi người thổi sáo tìm được cho mình những bạn Xa Nớt tốt (hò đối đáp tốt) thì họ có thể ngồi lại chơi với nhau, hát đáp mấy ngày liền không chán. Ngày trước hầu hết đàn ông người Vân Kiều đều thổi được Sáo Khui.
Không chỉ sử dụng lúc đông người hay trong các lễ hội, ngày nay Sáo Khui còn trở thành người bạn trong những lúc mưa gió không lên rẫy của các vị trung niên. Tuy nhiên, theo thời gian, số người biết sử dụng loại sáo này đang ít dần và đó cũng nỗi lo của những vị già làng, của những nghệ nhân còn sót lại…
Sáo Khui - nét văn hóa cần được gìn giữ và phát triển
Để được nghe, được thấy và đặc biệt là để hiểu rõ hơn về ý nghĩa của Sáo Khui, chúng tôi đã tìm gặp nghệ nhân Pă Khăm ở thôn Kalu huyện Đakrông - một trong số ít người còn biết làm và sử dụng loại nhạc cụ này. Thật ngạc nhiên giữa chốn núi rừng bạt ngàn, trên vách của nhà sàn, Pă Khăm nâng niu cất giữ không chỉ Sáo Khui, mà còn có nguyên cả một bộ cồng chiêng, trống, đàn nguyệt, tỳ bà, khèn, nhị…
Pă Khăm cho biết: Để có được một chiếc Sáo Khui như ý mất rất nhiều công đoạn. Sáo Khui được làm từ nứa Lồ Ô lấy tận trong rừng sâu. Công đoạn tìm và chặt nứa rất quan trọng. Đầu tiên phải lùng tìm cho được những cây nứa già có ống dài, thân lại không quá dày để âm thanh phát ra được hay. Thứ hai, khi nhắm thấy cây có thể dùng để làm sáo thì phải đợi chọn ngày, thường là ngày trăng sáng (15 - 16) trong tháng để chặt cây. Thứ ba, trước khi chặt những người này phải hò một bài - với quan niệm là hò như vậy khi làm ra sáo sẽ có âm thanh hay hơn…
Khi chặt nứa về, người ta gọt và đem phơi trên bếp lửa 1 đến 2 tháng, khi đã thật khô mới làm những công đoạn tiếp theo. Sau khi phơi khô trên dàn bếp, người ta dùng dùi sắt nung đỏ để khoét lỗ, đây cũng là một trong những thao tác khó vì nó cũng góp phần tạo nên âm thanh chuẩn.
Ban sơ, Sáo Khui chỉ dành riêng cho các bậc trung niên sử dụng bởi lẽ đến mùa lúa chín các bậc này phải lên rẫy để trông; ngồi buồn nhiều khi mưa rả rích không biết làm gì họ đã tìm những ống nứa khoét lỗ thổi cho vui. Càng về sau họ phát hiện thấy âm thanh phát ra hay lại vang xa, đỡ buồn, người ở bên rẫy bên này có thể thổi tâm sự cho người ở bên rẫy bên kia và ngược lại… vì thế họ chuyện trò với nhau bằng tiếng sáo. Cũng từ đó Sáo Khui ra đời và trở nên phổ biến, nó tồn tại với đời sống sinh hoạt văn hoá của người dân tộc Vân Kiều.
Có thể nói rằng loại nhạc cụ này đã trở thành nét văn hoá đặc trưng của người Vân Kiều. Tuy nhiên trên thực tế ngày nay đã không còn nhiều người biết sử dụng loại nhạc cụ này. Nghệ nhân Pă Khăm tâm sự: "Hiện nay, người biết làm và sử dụng hay nhạc cụ này ở thôn bản chỉ độ vài người nữa mà thôi. Sợ mai này những người như tui không còn thì cũng mất đi nét văn hóa của dân tộc mình nên tui đã tập hợp thành một đội văn nghệ 20 người...”.
Nguồn : Báo Hòa Bình