Thực ra đây không phải là vùng đất mà người Thái đặt chân xuống đầu tiên trong cuộc thiên di của mình. Từ thế kỷ XI, theo dòng sông Hồng (Nậm Tao), người Thái đổ bộ xuống Nghĩa Lộ (Mường Lò) rồi từ đó con cháu của Tạo Xuông, Tạo Ngần tiến dần sang các vùng Sơn La, Điện Biên, giáp Lào. Đất ấy, tên Thái là Mường Theng tức là mường trời mà ngày nay chúng ta vẫn đọc trại ra thành Mường Thanh. Lên tới Mộc Châu là nghe tiếng thông reo vi vút với rừng tre rừng vầu ngút ngàn trong sắc trắng hoa ban. Phải chăng chính vì thế mà châu Mộc có tên Thái là Trảng Tre, Trảng Ban (Phiêng Xang, Phiêng Ban)? ấy là nói những năm trước đây, chứ bây giờ hoa ban còn ít lắm.
Từ cao nguyên Mộc Châu đổ xuống thung lũng Yên Châu rồi vượt qua dãy Chiềng Đông đến Nà Sản về Sơn La. Không thấy hoa ban. Từ Sơn La vượt hơn 30 cây số đèo Pha Đin, nơi ngăn cách giữa trời và đất, nơi bông hoa ban thấm đẫm trong từng câu dân ca Thái để đến Tuần Giáo. Cũng khó gặp hoa ban. Núi rừng hầm hập nóng trong gió Lào của đất Yên Châu, lạnh lẽo và cô quạnh trong mù sương trên đỉnh Pha Đin. Đến lúc này, người ta mới thấy quý bóng cây ban. Hoa Ban mất đi không phải lỗi của người dân nơi đây. Người Thái bảo vệ rừng ban không chỉ vì nó là biểu tượng văn hoá của quê hương họ, mà còn vì chỉ có cây ban mới mọc được nơi đất cằn, độ dốc lớn. Nhờ có cây ban giữ lại mùn mà đất cằn tái sinh, mà nước mưa ngấm vào lòng đất ngăn nhưng cơn lũ ống bất chợt tràn về. Cây ban không cho gỗ, cây ban đun cũng không cháy. Chỉ có bát canh hoa ban cho con trẻ được no lòng khi giáp hạt.
Luật và tín ngưỡng tôn giáo của người Thái trước đây quy định, bản nào cũng có hai khu rừng hoang dại mang tên rừng kiêng (đông căm) hay rừng ma (đông phi) và một khu rừng cấm chặt phá để bản tổ chức "Ngày hội hái măng" (Há nó pá hẳm). Vì không ai dám chặt phá nên đã giữ được rừng nguyên sinh. Chẳng riêng gì người Thái, cả người Mông trên núi cao, người Khơ Mú, Kháng, La Hả... trong rừng sâu đều tự nguyện tuân theo luật Thái. Bởi đó là quyền lợi lâu dài của tất cả các dân tộc trong vùng.
Cây ban không còn, rừng cũng không còn, gió Lào như những lưỡi lửa vô hình quất vào đá núi. Chiếc khăn piêu rực rỡ không còn che đỡ nổi cái nắng lúc hạ về. Cô gái Thái bây giờ phải mang thêm cái nón của người xuôi. Với những cô gái đã lập gia đình, đầu đã búi tóc (tẳng cẩu), đội cái nón vào trông rất ngộ. Nó mất hẳn đi sự cân đối nhưng vẫn đẹp; nó mong manh như mái nhà sàn chông chênh trên sườn núi, ai đó muốn chở che nhưng lại quá xa vời.
Người Tây Bắc nói chung và người Thái nói riêng sống chân thật, hoà thuận. Trong bản cũng như trong gia đình ít khi to tiếng với nhau. Đặc biệt, hiếm khi thấy bố mẹ đánh đập con cái. Sống đoàn kết và thương yêu nhau là nét chủ đạo trong cuộc sống của người Thái. Tục ngữ Thái có câu: "Một thân không thể ngồi trên nong tự nhấc, không thể ngồi trên gốc tự nhổ" (Phủ điều báu năng đổng hak nho, báu năng to hak cốn). Cho nên khi đói kém, bản Thái và các dân tộc anh em vùng Tây Bắc sẵn sàng chia sẻ lương thực cho nhau. Có lẽ phải tiếp cận từ góc nhìn như thế thì mới lý giải nổi sự tồn tại trong hàng chục năm của các quán hàng tự giác trên khắp các nẻo đường Tây Bắc. Hay phải chăng, đó là hệ quả của một xã hội chưa biết đến thương nghiệp với vật ngang giá là đồng tiền? Vậy thì ta nên vui hay buồn đây khi mà những quán hàng tự giác như thế ngày nay chỉ còn tìm thấy trong những câu chuyện cổ tích?
Người Thái ngày nay vẫn hiếu khách. Chẳng cần biết lạ hay quen, thân hay sơ, khách đến nhà là được ngủ ở vị trí trang trọng với chăn mới, đệm mới do chính bàn tay khéo léo của các cô gái Thái làm nên. Là con gái Thái thì không được phép ngừng tay làm vải và phải đạt đến độ tinh xảo: "Sấp đôi tay đã thành hoa văn, ngửa bàn tay đã thành hoa lá" (Khuổm mư pên lai, hai mư pên pok). Có lẽ cũng chính vì thế mà người Thái gọi bạn trăm năm là vợ con tay guồng sợi tơ. Gái Thái đẹp nhưng siêng năng, khéo tay nhưng hiền thục. Nhà có khách, các cô gái Thái bẽn lẽn quỳ cả buổi để tiếp rượu. Khách hoặc chủ có lỡ say thì đó cũng là cái sự quá vui mà thôi. Gần đây, một vài người có chê trách tật uống rượu say của người Tây Bắc. Thực ra đó không phải là tập quán. Uống rượu thì có, nhưng việc say xỉn thì ngay cả người Thái cũng lên án. Bởi vậy mới có câu: "Uống rượu đừng uống say, say nhiều thành vơ vất người đời cười chê" (Kin lảu nha mau lai, mau lai pên báng pa pươn tay hua nả). Nếu cứ trách như thế thì hoá ra ta đã hiểu nhầm lòng chân thành và hiếu khách của bà con mất rồi.
Ngô Thiệu Phong-quehuongonline.vn