Từ lâu, người dân Bình Định rất tự hào về hình ảnh chiếc nón ngựa nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc. Xét trên bình diện lịch sử, từ thời Quang Trung, nón đã gắn liền với đội quân thần tốc Tây Sơn.
Nón lá là một hình ảnh rất đặc trưng, gắn liền với trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Những chiếc nón quai thao của các cô gái xứ Bắc, nón bài thơ của cô gái Huế đã đi vào thi ca, càng tôn thêm nét quyến rũ, duyên dáng của phụ nữ Việt Nam… Chiếc nón ngựa Phú Gia của các cô gái đất võ Bình Định cũng vậy, nó được tạo nên từ bàn tay khéo léo, tài hoa của những người thợ thủ công gắn bó với nghề, tạo nên nét văn hóa riêng của miền đất võ.
Ở làng Phú Gia, xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định, bên những rặng tre yên ả và những cây rơm còn thơm mùi rạ, hơn 300 năm qua, người dân nơi đây đã gắn liền với nghề làm nón ngựa, một sản phẩm độc đáo mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống của miền đất võ.
Ông Đỗ Văn Lan, 63 tuổi, 50 năm làm nghề, hiện là Tổ trưởng Làng nghề nón ngựa Phú Gia chia sẻ, người dân Bình Định vốn rất tự hào về chiếc nón ngựa nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc, bởi xét trên bình diện lịch sử, từ thời Quang Trung, nón đã gắn liền với đội quân thần tốc Tây Sơn. Hiện nay, chiếc nón ngựa Phú Gia đã trở thành mặt hàng thủ công mỹ nghệ độc đáo với nguyên vẹn cốt cách ban đầu. Nếu như chiếc nón Bài Thơ của xứ Huế nổi tiếng với sự thanh lịch khi lồng trong lớp lá là hình ghép hoa lá cùng những câu thơ, câu văn thì nón ngựa Phú Gia là loại nón mang vẻ đẹp mạnh mẽ của con nhà võ, thường được thêu hoa văn theo các đề tài “long, lân, quy, phụng”, “lưỡng long tranh châu”, “mai, lan, cúc, trúc” hoặc cảnh vật trên nang sườn nón.
Ở vùng đất võ Bình Định, những chiếc nón có bịt bạc, chạm trổ hình rồng phượng trên đỉnh nón ngày xưa được giới quan lại, địa chủ dùng để đội khi cưỡi ngựa chính là lý do chiếc nón Phú Gia được gọi là nón ngựa.
Theo những nghệ nhân cao niên ở làng, nguyên liệu dùng làm nón ngựa là cây giang làm sườn, lá kè (cọ) làm lá lợp nón, cây dứa (thơm tàu) thì chải ra làm chỉ. Dụng cụ để sản xuất gồm lồng tre (để sấy khô lá kè), kéo chuyên dụng (cắt lá kè), dao vuốt (chẻ) nang sườn, bàn chốt nang (có những lỗ tròn nhiều kích cỡ khác nhau để tướt nang tròn đều), kim chuyên dụng chằm nón, khuôn nón mẫu. Ngày nay chỉ được thay thế bằng cước mịn, còn giang, cọ thông thường thì được lấy từ vùng núi Vân Canh. Để có một sản phẩm là chiếc nón ngựa đẹp thường phải qua bốn công đoạn cơ bản:
Tạo sườn mê: Rễ cây giang lấy từ trên núi đem phơi khô, chẻ thành những sợi nhỏ mỏng như sợi cước. Cách thức đan nang theo kiểu đan giỏ, các lỗ nang có hình lục giác tạo thành một miếng mê lớn.
Thắt nang sườn: Đặt miếng mê lên khuôn nón mẫu, khâu vành nang dưới cùng để tạo sườn hình nón. Tiếp đến là khâu sườn đứng và sườn ngang bằng các sợi giang có kích cỡ như sợi tăm. Hai công đoạn làm sườn nón này phải do những người thợ chuyên nghiệp thực hiện.
Thêu hoa văn trên sườn: Thông thường được thêu hoa văn theo các đề tài “long, lân, quy, phụng”, “lưỡng long tranh châu”, “mai, lan, cúc, trúc”, câu thơ, câu đối hoặc những cảnh vật trên nang sườn.
Lợp lá chằm chỉ: Ở công đoạn cuối cùng này, người ta hái lá kè tươi từ vùng núi Vĩnh Thạnh, Gia Lai về; lá được xử lý công phu, tước bỏ sống lá, phơi khô trong bóng râm, đặt trên chậu lửa và lồng tre để xông lá cho chín; sau đó đem ra ngoài trời phơi sương, hơ lửa để vuốt cho lá được thẳng, phẳng. Người thợ dùng kéo chuyên dụng có bản mỏng, lưỡi dài để cắt lá thành từng miếng nhỏ theo chiều cao nón. Xếp chồng mép mí lá bủa (xòe) đều xung quanh sườn nón từ đỉnh xuống. Sau khâu lợp lá, người ta bắt đầu chằm (khâu) lá vào sườn nón, chỉ chằm nằm dưới mí lá nên nhìn bên ngoài không thấy đường chằm. Để có một chiếc nón đẹp, việc chằm nón cần phải chú ý đến từng đường kim mũi chỉ phải thật khéo để lá kết chằm vào sườn không bị nghinh, bị lật mà trông nón vẫn thanh.
Chằm xong, người thợ cắt bỏ những sợi chỉ thừa dính trên bề mặt nón và không quên trang trí một chùm chỉ ngũ sắc ở đỉnh nón, thay cho chóp bịt bạc như xưa.
Mỗi công đoạn trên thường được chuyên môn hóa cho từng người trong gia đình. Và mỗi một gia đình như là một công xưởng có bộ máy điều hành sản xuất. Để nên hình một chiếc nón, tính tất cả các công đoạn thời gian ít nhất cũng mất hai, ba ngày.
Ngoài Phú Gia, những thôn lân cận của xã Cát Tường như Kiều Đông, Xuân Quang cũng làm nghề chằm nón, tuy nhiên tập trung nhiều nhất vẫn là ở Phú Gia. Nghề chằm nón gắn bó mật thiết với quá trình lập làng Phú Gia, do đó đa phần những nghệ nhân làm nón ở Phú Gia đều có tâm huyết với nghề truyền thống quê mình. Có những nghệ nhân cao tuổi nhưng hàng ngày vẫn gắn bó với công việc chằm nón, chính họ là những nghệ nhân trụ cột tiếp tục truyền nghề cho các thế hệ con cháu mai sau.
Nón ngựa Bình Định không chỉ có giá trị về mỹ thuật, là di sản văn hóa mà còn là một trong những sản phẩm đặc trưng của văn hóa trang phục Bình Định, nhất là đối với cô dâu trong ngày cưới. Chiếc nón không đơn giản chỉ là một vật đội đầu che nắng che mưa, mà còn là sản phẩm kết tinh của tính chăm chỉ, sáng tạo, sự khéo léo của người thợ và thể hiện trình độ văn hóa của vùng đất đã sản sinh ra nó.
Kể từ khi Liên hoan Quốc tế Võ cổ truyền Việt Nam được tổ chức tại Bình Định lần đầu năm 2006, rất đông du khách trong và ngoài nước đã đến tìm hiểu làng nghề nón ngựa Phú Gia, hầu hết đều thích loại nón này và khen ngợi bàn tay tài hoa, khéo léo của người thợ làm nón ngựa. Từ đó, sản phẩm nón ngựa Phú Gia, như một tác phẩm nghệ thuật độc đáo, đã được các du khách quốc tế đặt hàng, mang về nước làm kỷ niệm khi tới thăm vùng đất võ Bình Định, Việt Nam.
Nguồn : Quehuongonline