Theo truyền thuyết kể lại thành Nhà Hồ (còn gọi là thành Tây Đô) ở,
là một trong những công trình kiến trúc bằng đá độc đáo bậc nhất của
Việt Nam và trên thế giới. Đây là công trình được Hồ Quý Ly cho xây dựng
vào năm 1397, nó từng được coi là kinh đô, trung tâm văn hóa chính trị
xã hội của nước Đại Ngu dưới triều Hồ. Trải qua hơn 600 năm tồn tại với
bao biến cố của lịch sử, hầu hết hoàng thành đã bị phá hủy, nhưng thành
quách vẫn gần như còn nguyên vẹn. Ngày 27-6-2011, Thành Nhà Hồ chính
thức được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Xung quang câu chuyện về việc xây dựng Thành Nhà Hồ đã có quá nhiều
câu hỏi được đặt ra: như làm cách nào mà người xưa có thể xây thành
nhanh đến thế? chỉ trong vòng 3 tháng với những tảng đá lớn hàng chục
tấn, chất liệu kết dính các khối đá, việc vận chuyển…? Đặc biệt, chuyện
về đôi rồng đá cụt đầu mà cho đến nay cũng không ai lý giải được vì sao
đôi tượng rồng lại mất đầu và đầu rồng giờ đang ở đâu? Chỉ biết, hiện
giờ đôi rồng đá mất đầu vẫn đang được nằm song song bên đường đi trong
nội thành từ cổng Nam sang cổng Bắc.
Ông Nguyễn Xuân Toán, Phó giám đốc Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà
Hồ chia sẻ: thì đôi rồng đá trên đã được người Pháp phát hiện vào năm
1938 khi họ làm một con đường nội địa trong thành, chứ không phải được
người dân phát hiện như đồn đại.
“ đầu rồng mất đầu là do quân Minh gây ra, vì trong quá trình khai
quật cũng như sưu tầm, Trung tâm Bảo tồn di sản Thành Nhà Hồ cũng đã
phát hiện một số con vật khác bị mất đầu như con nghê đá. “Tất cả cũng
chỉ là phỏng đoán và truyền miệng, chứ chưa có một văn bản hay sử sách
nào ghi chép vì sao đôi rồng đá bị mất đầu cả. Còn việc bảo đôi rồng có
chứa ngọc ngà là không có căn cứ vì rồng được đục bằng đá nguyên khối,
nên không có chuyện vua chúa bỏ ngọc ngà vào đó cả” – ông Toán chia sẻ
thêm.
“Đôi rồng này có chiều dài 3,8 m, là đôi tượng rồng lớn nhất trong
các triều đại phong kiến Việt Nam được phát hiện. Đôi rồng được chạm
khắc tinh xảo bằng đá xanh nguyên khối, thân thon nhỏ dần về phía đuôi,
uốn bảy khúc, có vảy phủ kín thân. Rồng có bốn chi, mỗi chi có ba móng.
Các khoảng trống dưới bụng và ô tam giác ghép thành bậc đều được chạm
hoa cúc và móc hoa lượn mềm, tỉ mỉ. Theo tìm hiểu của chúng tôi thì đôi
rồng này giống như rồng được chạm khắc trên thềm bậc ở Hoàng thành Thăng
Long (Hà Nội), chính điện Lam Kinh (Thanh Hóa)” – ông Toán cho biết.
Vì thế việc vì sao đôi rồng mất đầu, ai đã chặt đầu rồng? Đến nay vẫn
chưa có một lý giải nào có cơ sở. Theo một số các cụ cao niên sống lâu
năm trong làng Xuân Giai (xã Vĩnh Tiến) thì có một câu chuyện được
truyền miệng từ xa xưa là do đầu rồng quay vào làng nên trong làng
thường xuyên xảy ra cháy nhà. Cho rằng rồng phun lửa gây họa nên người
dân trong vùng đã chặt đầu rồng đi. Ngoài ra còn có một câu chuyện được
thêu dệt rất huyền bí rằng trong đầu rồng có ngọc ngà châu báu nên lợi
dụng một đêm mưa gió một nhóm người đã chặt đầu rồng mang đi nơi khác để
lấy châu báu.
Câu chuyện hòn đá in dấu đầu người và 2 bàn tay
Trải quan hơn 600 năm tồn tại và phát triển, Thành Nhà Hồ đang là một
bí ẩn, trong đó có câu chuyện cảm động về nàng Bình Khương, người đã
đập đầu vào đá Thành Nhà Hồ kêu oan và chết cùng chồng.
Theo sử sách ghi lại, nàng Bình Khương là vợ của Trần Công Sỹ (Cống
Sinh), là một vị quan được Hồ Quý Ly giao cho giám sát và đốc thúc quân
lính xây dựng đoạn thành phía Đông. Lúc này việc dời đô vô cùng cấp bách
bởi quân Minh đã nhiều lần nhăm nhe vượt ải Bắc tiến vào nước ta. Tiến
độ xây thành đang gấp rút từng ngày thế nhưng đoạn thành phía Đông do
Trần Công Sỹ phụ trách cứ xây gần xong lại sập, không ai rõ nguyên nhân
từ đâu. Nghi ngờ Trần Công Sỹ làm phản, cố ý làm chậm tiến độ xây thành.
Tức giận, Hồ Quý Ly đã cho người chôn ông ngay vào tường thành để làm
gương và răn đe quân lính. Ở quê nhà nghe tin chồng bị chôn sống, nàng
Bình Khương đã chạy đến chỗ chồng bị chôn rồi xô những tảng đá ra để
mong nhìn thấy xác chồng nhưng không được. Uất ức, nàng đã lấy hết sức
đập đầu vào đá để được chết cùng chồng. Kỳ lạ thay tảng đá nơi nàng Bình
Khương kết liễu đời mình lõm xuống 1 hố sâu in hình đầu người và hai
vết lõm nhỏ bên cạnh giống như hai bàn tay đang cào xé.
500 năm sau, đến đời vua Đồng Khánh (nhà Nguyễn) người ta nghe tin
đồn về dấu tay và đầu nàng Bình Khương vẫn còn in rõ trên phiến đá tường
thành sau mấy trăm năm, nên khách xa gần hiếu kỳtìm về đây rất đông.
Viên hào lý trong làng Đông Môn lo ngại tiếng đồn ngày càng vang xa sẽ
gây phiền phức, nên đã thuê thợ về đục cả phiến đá đem chôn xuống lòng
đất. Sau khi chôn phiến đá ấy, người thợ bỗng nhiên mắc bệnh lạ và chết,
viên hào lý cũng chết không rõ nguyên nhân.
Bấy giờ, Tri phủ Đoàn Thước nghe tin, sai lính tìm bằng được và đào
phiến đá đó lên, lắp đúng vào chỗ cũ và khắc dòng chữ “Trần triều Cống
Sinh – Bình Khương nương, phu nhân tri thạch” (tạm dịch tảng đá này ghi
dấu vết của nàng Bình Khương, là nương tử của ông Cống Sinh, triều nhà
Trần). Tri phủ lại dựng thêm một phiến đá ở chân thành, nơi xưa kia Cống
Sinh bị chôn lấp, trên đó cũng khắc một dòng chữ “Trần triều Cống Sinh –
Bình Khương phu quân chi biếm” (có nghĩa nơi chôn lấp chồng bà Bình
Khương, là Cống Sinh triều Trần).
Cảm thương tình cảm của nàng Bình Khương giành cho chồng, nhân dân
địa phương đã lập đền thờ bà ngay sát chân Thành Nhà Hồ, cạnh nơi chồng
bà bị chôn sống (ngày nay thuộc làng Đông Môn, xã Vĩnh Long). “Đây là
một ngôi đền rất thiêng nên hàng năm cứ vào mùng một, ngày rằm hay những
ngày đầu xuân, có rất nhiều du khách và người dân địa phương đến thắm
hương cầu tình duyên, con cái, bình an” – ông Vũ Đình Sơn, người trông
đền cho hay.
Chuyện về việc đôi rồng đá mất đầu, hòn đá in dấu đầu người và 2 bàn
tay tại đền thờ nàng Bình Khương sẽ được lưu truyền mãi mãi cho các thế
hệ sau này mà chưa có lời giải thích, hay lý giải nào thích đáng.
Nguyễn Thưởng/trian.vn
Theo: Thanhhoa.Plus