Chè là một loại cây trồng mang lại lợi ích kinh tế cao, một thức uống lý tưởng có nhiều giá trị về dược liệu, bên cạnh đó cách trồng, chế bến chè còn là một nét văn hóa lâu đời của người Việt từ xưa tới nay.
Cây chè có giá trị kinh tế cao
Theo các nghiên cứu về sinh vật học, Việt Nam là một trong những quê hương của cây chè trên thế giới. Chè là một cây công nghiệp lâu năm, có đời sống kinh tế lâu dài, mau cho sản phẩm, cho hiệu quả kinh tế cao. Chè trồng một lần, có thể thu hoạch 30-40 năm hoặc lâu hơn nữa. Ngày nay trên thế giới có khoảng 40 nước trồng chè. Chè được trồng tập trung nhiều nhất ở châu Á, sau đó đến châu Phi.
Nghề trồng chè Việt Nam đã có từ lâu, nhưng cây chè được khai thác và trồng với diện tích lớn mới bắt đầu khoảng hơn 50 năm nay. Trong các vùng trồng chè, chè là nguồn thu nhập chủ yếu, góp phần quan trọng trong việc cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Việc sản xuất và cung cấp chè vừa có thể đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ ngày càng tăng trong nước và nhu cầu xuất khẩu. Chính bởi vậy, so với các loại cây trồng khác ở Việt Nam, chè là một trong những cây có ưu thế nhất cả về điều kiện khí hậu và nguồn lực lao động.
Do điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp cho nên cây chè được trồng rải rác ở hầu hết các tỉnh trung du và miền núi của Việt Nam. Ở miền Nam chè được trồng chủ yếu ở hai tỉnh Lâm Đồng và Gia Lai, ở miền Bắc là các tỉnh: Thái Nguyên, Phú Thọ, Tuyên Quang, Sơn La, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai...
Theo Hiệp hội Chè Việt Nam, trong ba tháng đầu năm 2011, Việt Nam đã xuất khẩu được 26.000 tấn chè trị giá 36 triệu USD. Giá trị đạt gần mức cùng kỳ năm ngoái trước sự gia tăng 3,7% về giá cả xuất khẩu, ở mức giá trung bình 1.437 USD/tấn. Năm 2011, với nhu cầu tiêu thụ cao từ phía khách hàng, cộng với lợi thế về giá, Hiệp hội Chè dự báo kim ngạch xuất khẩu năm 2011 sẽ tiếp tục tăng khoảng 20% so với mức 197 triệu USD của năm 2010, lên trên 200 triệu USD. Về khối lượng xuất khẩu, có thể ổn định quanh mức 135 nghìn tấn của năm 2010.
Hiện nay, chè đen vẫn là mặt hàng chè xuất khẩu chủ yếu của nước ta (chiếm hơn 60% tổng giá trị xuất khẩu). Xuất khẩu chè đen trong tháng 1/2011 đạt 10,26 triệu USD, giảm 25% so với tháng trước và giảm 47,02% so với cùng kỳ tháng 1/2010.
Việt Nam là quốc gia sản xuất và xuất khẩu chè lớn thứ 5 thế giới chỉ sau Ấn Độ, Trung Quốc, Kenya, Sri Lanka và ngang hàng với Indonesia.
Thức uống tốt cho sức khỏe con người
Cách đây gần 2.000 năm, trà đã được các thầy thuốc Trung Quốc sử dụng như một vị thuốc giúp con người khỏe và trẻ hơn. Các nghiên cứu y khoa hiện đại cũng phát hiện ngày càng nhiều giá trị dược dụng của trà. Việc sử dụng trà hằng ngày có thể giúp phòng và chữa nhiều bệnh tật. Theo như một số nhà nghiên cứu về chè thì Trung Quốc là nước đầu tiên chế biến chè để uống sau đó nhờ những đặc tính tốt của nó, chè trở thành thức uống phổ biến trên thế giới. Ngày nay chè được phổ biến rộng rãi hơn cả cà phê, rượu vang và ca cao.
Do chứa các chất chống ôxy hóa nên trà giúp làm chậm đi sự già cỗi của tế bào. Chất gallotanin trong trà ngăn chặn sự thoái hóa của tế bào thần kinh và kích thích quá trình phục hồi của chúng. Các flavonoide hạn chế sự lắng đọng cholesterol và xơ hóa mạch máu, làm giảm nguy cơ tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim và tỷ lệ tử vong do các vấn đề tim mạch. Trà cũng có tác dụng kích thích thần kinh trung ương, giúp tinh thần hưng phấn, kích thích hô hấp và làm tim đập nhanh hơn.
Nhiều nghiên cứu cho thấy, trà có khả năng phòng chống ung thư, ngăn chặn sự tổn thương ADN. Việc uống trà thường xuyên giúp giảm 50% nguy cơ ung thư dạ dày, 40% nguy cơ ung thư da (tỷ lệ này có thể lên đến 70% nếu uống trà với chanh). Hợp chất Florua có trong trà có tác dụng ngăn ngừa sâu răng. Catechin và các chất chống oxy hóa có thể tiêu diệt vi khuẩn giúp ngăn ngừa chứng hôi miệng. Trong trà còn có canxi và magiê, hai chất này tác động với nhau có tác dụng làm cho răng chắc khỏe. Vitamin D có trong trà có tác dụng giúp xương chắc khỏe. Ngoài ra, các axit amino giúp hình thành protein trong cơ thể có lợi cho cơ bắp, xương, da, tóc và có tác dụng chống lại các loại vi khuẩn, vi rút gây hại.
Theo kinh nghiệm dân gian, có thể dùng nước trà tươi đậm đặc hoặc trà tươi giã nát đắp vào vết hăm, lở loét, viêm tấy hay các vết nứt da do lạnh để giúp vết thương mau lành. Còn để chữa bầm dập do chấn thương, có thể trộn búp chè tươi với dấm để đắp.
Thưởng thức trà của người Việt là một nét văn hóa truyền thống
Với nhiều dân tộc trên thế giới như: Nhật Bản, Trung Quốc, Việt Nam, Anh, Pháp, Hà Lan... từ lâu trà là một thức đồ uống thông dụng. Là người Việt Nam, dù ở tầng lớp nào, là người miền xuôi hay miền ngược, từ thành thị đến nông thôn cũng đều uống trà như một thức uống truyền thống, mang đậm nét văn hóa Việt. Trà được coi là một thức uống không thể thiếu trong sinh hoạt hàng ngày, không những có lợi cho sức khỏe mà còn là nghi thức giao tiếp giữa con người với con người. Có thể nói trà có mặt trong mọi hoạt động của xã hội của người Việt, từ trong gia đình ra tới ngoài phố, từ các quán nước vỉa hè đến những nhà hàng tiếp khách sang trọng. Trong những dịp lễ tết, ma chay, cưới hỏi, trà là thứ không thể thiếu. Một bộ ấm pha trà là thứ không thể thiếu trong mỗi gia đình người Việt.
Cách thưởng thức trà của người Việt cũng mang nhiều nét độc đáo, cách uống trà của người Việt Nam rất đa dạng và không theo chuẩn mực nào. Việt Nam không có trà đạo, cách uống trà của người Việt được coi là nghệ thuật uống có tính truyền thống. Người Việt uống trà theo nhiều kiểu: dân dã có, sang trọng, cầu kì cũng có. Tùy vào thời gian và sở thích riêng mà mỗi người tìm cho mình một cách thưởng trà khác nhau, có thể là chè xanh (chè tươi) cũng có thể là trà mộc, trà ướp hoa... Chè tươi để tiếp đãi làng xóm láng giềng thân mật, trà ướp hoa để đãi thượng khách, khách quý phương xa đến thăm.
Chè tươi vốn là thức uống cổ xưa và phổ biến của người Việt. Cách pha chè tươi cũng có chút khác biệt tùy vào từng vùng. Chè tươi để nguyên lá, rửa sạch, không vò cho vào nồi nấu như tại làng Tiên Lữ, Vĩnh Phúc... Chè tươi rửa sạch, vò nát, nấu để uống từ sáng đến chiều như người Hà Nội và một số tỉnh miền Bắc. Chè tươi băm hoặc giã nát, ủ rồi phơi khô rồi mới hãm chè như người Huế....
Người dân ở một số vùng nông thôn, mỗi nhà thường trồng vài gốc chè ở góc vườn, bởi người dân nông thôn có thú ra vườn tuốt mấy nắm lá chè tươi vào hãm một nồi to. Mỗi khi đi ra đồng sẽ không quên mang theo một ấm trà xanh thơm mát (có thể cho thêm chút đường), dùng như một thức uống giải khát. Hình ảnh một làng quê, với cây đa, bến nước, sân đình đã quá quen thuộc với người Việt Nam. Nơi gốc đa đầu làng luôn là một quán nhỏ bán những món quà ăn vặt dân dã, và ở đó không thể thiếu một ấm trà và vài thức kẹo.
Ở các thành phố lớn của Việt Nam, đi đâu cũng có thể bắt gặp những quán trà đá ven đường, mà người ta vẫn quen gọi là “trà đá vỉa hè”. Những quán trà đá rất đơn giản, chỉ cần có phích nước, ấm trà, vài cái cốc, vài chiếc ghế, thế là người ta có thể ngồi uống trà và nói chuyện. Không cầu kì trong cách pha chế, cũng không kén chọn người uống, trà đá của người Việt Nam là một nét văn hóa rất bình dị mà cũng rất độc đáo. Khi thưởng thức trà có thể dùng các đồ ăn nhẹ kèm với trà: kẹo lạc, kẹo vừng thanh, kẹo cu đơ, bánh cốm, bánh đậu xanh... Đặc biệt, trong thời kì hội nhập, có nhiều loại thức uống của phương Tây tràn vào Việt Nam nhưng những quán trà đá ven đường vẫn thu hút giới trẻ. Điều ấy chứng tỏ sức hút của thứ đồ uống đặc biệt này.
Cao hơn nữa trong nghệ thuật trà của người Việt, phải nói tới nghệ thuật ướp trà, uống trà của người Hà Nội. Muốn trà sen Hà Nội có vị sen đặc trưng thơm ngát thì sen được chọn để ướp trà phải là sen của Hồ Tây. Mỗi cân trà phải dùng từ 1000 - 1400 bông sen để ướp, tùy độ to nhỏ và phải được hái trước lúc bình minh. Bông sen còn đẫm sương được tách lấy phần hạt gạo rồi rải đều, cứ một lớp trà một lớp gạo sen. Sau cùng phủ một lớp giấy bản. Ướp như vậy liên tục 5-7 lần, mỗi lần ướp xong lại sấy khô rồi mới ướp tiếp. Bởi vậy, trà sen được dùng vào những dịp quan trọng, dùng để tiếp đón các vị khách quý, bạn tri ân từ xa tới thăm hay dùng làm quà biếu. Ngoài hoa sen, trà còn được ướp với nhiều loại hoa khác nữa. Các loại hoa dùng để ướp trà cũng phải là các thứ hoa quý, thanh tao như: hoa ngâu, hoa sói, hoa nhài, hoa cúc...Cách uống trà ướp hoa này thể hiện được sự sang trọng, lịch lãm, tao nhã nhưng cũng có những người sành uống trà cho rằng uống trà ướp hương sẽ không còn hương vị thật của trà.
Cách pha trà cũng có phần cầu kì, người xưa có câu: "Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ bình, ngũ quần anh".
"Nhất thủy": Nước dùng pha trà thường phải là thứ nước mưa được hứng giữa trời, hay từ các nguồn suối tự nhiên, cầu kỳ hơn nữa là thứ sương đọng trên lá sen mà người đi thuyền hứng từng giọt vào buổi sớm mai. Thứ nước tinh khiết đó khi đun cũng không được phép mất độ thanh tịnh để không làm ảnh hưởng đến hương vị của trà.
"Nhì trà" chính là cách chọn trà: tùy theo sở thích mỗi người. Với loại trà nguyên, hay chính là "trà mộc" cánh trà sao quăn giống hình móc câu, cánh tròn, trôi tay, có mốc trắng như mốc cây cau. Trà này được pha ở nhiệt độ 80oC, hay 165 - 170 độ F. Đối với các loại trà được ướp hương từ các loài hoa thì nước pha trà phải có độ sôi ở 200 - 205 độ F.
Dụng cụ pha trà gồm chén trà và bình trà: "tam bôi, tứ bình": một bộ đồ trà thường có bốn chén quân, một chén tống để chuyên trà; chén thường là loại chén dạng hạt mít (mắt trâu). Bình cũng có bình chuyên và bình tống. Tùy theo lối uống "độc ẩm", "song ẩm", "tứ ẩm" hay "quần ẩm" mà có những loại bình tương ứng. Trước khi pha trà phải dùng nước sôi để tráng sơ chén và bình.
"Ngũ quần anh" chính là "bạn trà", bạn trà là người bạn tri âm, cùng nhau thưởng trà, ngâm thơ, bộc bạch nỗi niềm, hay bàn chuyện gia đình, xã hội.
Các cụ ngày xưa còn có những hình thức hội trà. Ðó là uống trà thưởng xuân, uống trà thưởng hoa, uống trà ngũ hương. Hội trà là tụ họp những người bạn sành điệu cùng chung vui trong các dịp đặc biệt hoặc có hộp trà ngon, hay có một chậu hoa quý hiếm trổ bông, hay trong nhà có giỗ chạp.
Hiện nay, ở Việt Nam xuất hiện rất nhiều quán với nhiều loại trà và nhiều cách thưởng trà. Những quán trà này mang không khí hoài cổ và yên tĩnh, mỗi quán có phong cách của riêng, là nơi bạn bè, đồng nghiệp, những người yêu nhau... đến thưởng trà. Đặc biệt, nó cũng chính là nơi lưu giữ và truyền bá văn hóa trà, nghệ thuật thưởng thức trà của những người Việt Nam. Ở những quán trà hiện nay có sử dụng những loại trà được ướp hương hoa pha chế thành trà hoa có hương thơm đặc trưng của loài hoa đó. Cũng có các loại trà thảo mộc, thường được chia ra làm bốn vị: ngọt, cay, đắng, chát.
Đến với các quán trà Việt hiện nay, người thưởng trà có rất nhiều sự lựa chọn như: trà hoa cúc, trà cung đình, long nhã hồng táo trà, trà hoàng thiên kim cúc... Các loại trà được pha theo nhiều kiểu khác nhau, để phù hợp và theo kịp với cuộc sống hiện đại, đó là các loại như: hồng trà nóng, hồng trà đá, hồng trà sữa, hồng trà sữa ngọc trai... Và không thể thiếu các loại trà cổ truyền như: trà hoa sen, trà hoa nhài, trà mộc...
Trước kia, trà được xem là thú vui tao nhã của những người lớn tuổi, nhưng hiện nay trà đang rất được giới trẻ quan tâm và tìm hiểu về nó. Những quán trà này cũng thu hút rất nhiều khách quốc tế tới thưởng thức. Không gian tại các quán trà Việt được rất yên tĩnh, cánh bài trí đơn gian, gần gũi với thiên nhiên. Một không gian yên tĩnh, những bản nhạc không lời du dương là một không gian phù hợp để thưởng trà.
Trà Việt Nam đã có mặt ở 118 quốc gia và vùng lãnh thổ trên tất cả các châu lục và đang đứng hàng thứ 5 trên thế giới cả về sản lượng và xuất khẩu. Sắp tới, Việt Nam sẽ tổ chức Festival Trà Quốc tế lần thứ nhất – Thái Nguyên 2011 (The first international tea Festival – Thainguyen 2011) vào tháng 11 tại Thái Nguyên. Đây là cơ hội để giới thiệu văn hóa trà, quảng bá các sản phẩm trà Việt Nam với du khách trong và ngoài nước, là dịp để giao lưu, trao đổi kinh nghiệm về cây chè, sản phẩm chè giữa các doanh nghiệp trồng, chế biến, tiêu thụ chè trong nước và quốc tế, từng bước nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đối với cây chè và sản phẩm chè Việt Nam.
Nguồn : ĐCSVN