Đình Hương Canh, thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, Tỉnh Vĩnh Phúc thờ 6 vị thành hoàng là những nhân thần triều đại vua Ngô Quyền là Hoảng tử cả Ngô Xương Ngập, sắc phong là Thiên Sách Hoàng Đế, hoàng tử thứ Ngô Xương Văn sắc phong Quốc Vương Thiên Tử, tướng Đỗ Cảnh Thạc và các vị thánh mẫu Linh Quang Thái Hậu, Khả Lã Nương Nương, Thị Tùng Phu Nhân.
Đình Hương Canh trước đây thuộc xã Hương Canh, huyện An
Lãng, Phủ Tam Đái, Trấn Sơn Tây (xứ Đoài), ngày nay là thị trấn Hương Canh, huyện
Bình Xuyên, Tỉnh Vĩnh Phúc. Bên cạnh là đình Ngọc Canh, Tiên Canh, chùa Kính
Phúc, đều đã được xếp hạng Quốc gia và các điếm, miếu cổ trong một khu vực
không rộng của làng gốm cổ Hương Canh – đình Hương Canh tạo thành cụm di tích dầy
đặc về mật độ, độc đáo về mỹ thuật kiến trúc gỗ cổ dân gian, rất quý hiếm của tỉnh
Vĩnh Phúc, của xứ Đoài và vùng đồng bằng – trung du Bắc bộ.
Từ xa xưa Hương Canh đã nổi danh xứ Đoài về sự trù phú và
danh giá, từng có câu ca dao cổ đời Lê ca ngợi vùng đất này:
Xứ Nam nhất chợ Bằng Gồi
Xứ Bắc Vân Khám, xứ Đoài Hương Canh
Cũng chính bởi thế tại Hương Canh đã có rất nhiều công trình
văn hóa với quy mô to lớn dầy về kiến trúc, dầy đặc về mật độ còn được gìn giữ
nguyên vẹn đến ngày nay. Cho đến những năm cuối thế kỷ XX vẫn còn lại 3 đình lớn
và 3 ngôi chùa cổ. Nhưng có lẽ trong các công trình ấy được nhắc tới nhiều và
ca ngợi hơn cả là Đình Hương Canh.
Căn cứ vào tài liệu thống kê của Viện Viễn Đông Bác Cổ
(1938), đình Hương Canh có 26 đạo sắc phong được phong từ đời Hậu Lê tới cuối đời
Nguyễn nhưng do những biến cố lịch sử trong thời gian kháng chiến chống Pháp
(1949-1954) nên tất cả những sắc phong nay đã không còn và đáng tiếc không còn
bản sao ở các thư viện lưu trữ quốc gia.
Không chỉ thờ thành hoàng làng, hai gian cạnh của đình có
hai ban thờ khác. Bên tả thờ những bậc tiên hiền của làng gọi là ban ‘Tiên Hiền
Quan’. Bên hữu thờ các nghĩa sĩ của làng đã hy sinh trong hai lần chống giặc Thằng
Què (Nguyễn Danh Phương) năm 1750 và quân Cờ Đen Lưu Vĩnh Phúc năm 1884. Ban thờ
bên hữu đó gọi là “Ban Trung Hồn Quan”
Đình Hương Canh được biết đến với kiến trúc tiêu biểu của
đình làng Bắc Bộ xưa và là một trong những ngôi đình nổi tiếng về nghệ thuật chạm
khắc ở vùng đất Xứ Đoài. Đình làng Hương Canh được xây dựng vào thời Hậu Lê (thế
kỷ XVII) chính xác là vào đời vua Vĩnh Thịnh nhà Lê (1705 – 1729).
Nằm ở vị trí giữa làng, gần 300 năm nay đình Hương Canh vẫn
đứng đó như thách thức với nắng mưa, tự hào trường tồn với thiên nhiên cỏ cây.
Đình được thiết kế với cấu mái đồ sộ nhưng thanh thoát như bộ cánh diều đang
bay lên, nhưng lại gợi nhớ đến cung đình nguy nga của thần tiên. Lợp bằng ngói
mũi hài, mái đình được các hiệp thợ ngoã Hương Canh xếp đặt theo kiểu “đóng óc
vẩy rồng” rất chặt chẽ, phẳng đẹp.
Bờ nóc được đắp thẳng ke, hai đầu cong lên, các đầu đao cũng
vút lên tương tự, toàn bộ mái đình trông như một cánh diều khổng lồ. Nhờ vậy mà
đình Hương Canh nhìn toàn cảnh rất đồ sộ nhưng thánh thoát, đồ sộ mà duyên dáng
với những đường nét kiến trúc mềm mại, uyển chuyển.
Xưa kia, đình Hương Canh có 3 toà kiến trúc bố cục theo kiểu
chữ “vương”, năm 1964 trong khi tu sửa đã dỡ đi toà cuối cùng, nay còn toà tiền
tế và đại đình. Tiền tế đình Hương Canh gồm 3 gian, mái được làm kiểu 2 tầng 8
mái, toà đại đình 5 gian 2 dĩ, dài 26m, rộng 13,50m, 4 mái.
Để chống đỡ bộ mái nặng hàng chục tấn ấy, các nhà thiết kế
thời bấy giờ đã tạo ra cho đình một bộ khung rất chắc chắn. Riêng toà đại đình
với 6 hàng chân – 48 cột gỗ tốt, đại khoa, cột cái có chu vi 2,40m, cao 6m; cột
con chu vi 1,80m, cao 4m.
Sự tài tình của người
thợ ở đây là ngoài việc mộng sàm chặt khít, còn phải tính toán chính xác để
phân phối lực đều cho toàn đình, từ đó tạo cho đình một thế cân bằng (nếu không
thì đình sẽ bị lật đổ theo kiểu “nặng bồng nhẹ tếch”). Mỗi bộ phận cấu tạo nên
đình đều chịu một lực nhất định tương xứng với chức năng của nó.
Các xà ngang dọc giằng co với nhau, thu hút lực đưa về ngọn
cột để cột chịu lực là chính. Làm được điều đó chắc phải tính toán, đo đạc kỹ
lưỡng đến mức nào. ở xó đình bên phải có một đầu bẩy còn cả lỗ sẹo gỗ do người
khai thác chặt bằng rìu để luồn dây kéo gỗ về, phần đó thường phải cắt đi nhưng
ở đây vẫn được tận dụng hết. Việc làm ngẫu nhiên đó của người xưa nói lên sự
tính toán chính xác của họ khi thi công đình này
Không làm kiểu “chồng bồn tứ trụ” như một số đình khác mà kết
cấu bộ vì đình Hương Canh làm kiểu “cột đội cảnh sẻ” rất khoẻ và giữ được nóc đình
vững bền. Có thể nói, các bộ phận cấu tạo nên đình được bố trí rất hợp lý, từ
các thành phần to đến chi tiết nhỏ đều có một tác dụng nhất định, chúng đều phải
“làm việc” với hiệu xuất cao. Để nâng một góc đình với bộ đao khá nặng một số
xó nhỏ thôi mà phải ăn mộng tiếp xúc với 6 đầu xà ngang dọc…
Trong ngôn ngữ của người Việt, sự đồ sộ hoành tráng của ngôi
đình được dùng làm hình tượng so sánh, ví với những vật thể to lớn hay công việc
trọng đại, như “việc tày đình”, “to bằng cột đình” hay:
Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.
Đình Hương Canh quả đúng là một công trình nguy nga đối với người dân địa phương như vậy.
Như đã nói, đồ sộ nhưng không nặng nề, đình Hương Canh đã được
các nghệ nhân giải quyết điều đó bằng kỹ thuật chạm trổ hết sức tinh vi, điêu
luyện. Tất cả các đầu dư, họng cột, những phần thừa ra, các nghệ nhân đều biến
chúng thành những tác phẩm nghệ thuật:
Những con kìm được chạm lộng sâu hàng gang tay, những nét
mác cong đều vút lên hùng dũng, những đầu hoành, đòn tay là chú voi mập mạp như
đang đứng đó cùng nhau khiêng đội mái đình. Đặc biệt là các bức cốn, các bức chạm
trên ván gió mới thật là tuyệt tác.
Với 19 bức chạm tạo thành 6 mảng trang trí lớn khiến cho nội
thất đình Hương Canh thêm uy nghi, sinh động. Tiêu biểu là các bức chạm: Đấu
võ, đấu vật, bơi chải, bầu rượu túi thơ, đi săn về, người cưỡi rồng, táng mộ
vào hàm rồng, bát tiên…Đây là hình ảnh thu nhỏ của ngày hội làng, nó phản ánh
được phần nào sinh hoạt của xã hội thời Lê Trung hưng.
Là công trình kiến trúc đạt đến đỉnh cao về nghệ thuật điêu
khắc gỗ cổ dân gian, trong thời gian tới đình Hương Canh không chỉ giới hạn ở sự
quan tâm nghiên cứu của giới khoa học, mà còn là địa chỉ đỏ trong những chuyến
hành hương tham quan du lịch khám phá của du khách gần xa.
Những họa tiết chạm khắc vô cùng tinh xảo và đạt đến trình độ đẳng cấp thế giới của những nghệ nhân đã làm lên ngôi đình này.