Đình Sừng - Một di sản kiến trúc đặc sắc Đình Sừng - Một di sản kiến trúc đặc sắc Nằm ở phía Bắc huyện Yên Thành, xã Lăng Thành có một ngôi đình cổ đã được nhiều người gần xa biết đến, có tên Đình Sừng. Cũng như bao ngôi đình khác của làng quê nước Việt, Đình Sừng xã Lăng Thành là ngôi đình lớn có giá trị kiến trúc và nghệ thuật, tồn tại trên 500 năm. Làng Quỳ Lăng xưa có tên gọi Kẻ Sừng, ngôi làng cổ ẩn mình trong thế độc đáo, có lợi thế trong chiến tranh và tiềm năng phát triển kinh tế, vì vậy Kẻ Sừng xưa đã sớm trở thành một trong những trung tâm của Châu Diễn. Khi nhà Đường lấy huyện Hàm Hoan trong châu để đặt ra Diễn Châu, làm thành một trong 12 châu của An Nam đô hộ Phủ năm 679, cho đến hết triều đại nhà Đinh năm 979, liên tục trong 3 thế kỷ, lị sở của Diễn Châu đóng ở Kẻ Sừng. Đình Sừng nằm giữa một vùng đất rộng bằng phẳng, bốn bề là những cánh đồng rộng lớn, tuy hơi xa nhưng cảnh quan nơi đây vẫn thoáng đãng, mát mẻ. Nằm cách đình một quãng về phía Đông là sông Dinh, 1 đoạn trong hệ thống tưới tiêu Vách Bắc, phía Tây là làng mạc, chợ búa sầm uất nằm xen giữa những vườn đồi và rừng cổ thụ bạt ngàn. Tòa đình khang trang Theo văn bia ghi chép lại: tháng 11/1583, nhân dân làng Quỳ Lăng đã hợp lực xây dựng một ngôi đình để làm nơi hội họp và sinh hoạt văn hóa. Nguyên xưa đình được làm bằng tranh tre, nứa lá nằm giữa một quần cư trù mật, quanh đình có làng mạc, cây đa, bến nước, có con sông Sừng uốn khúc như dải lụa mềm chở nặng phù sa tắm mát cho ruộng đồng. Cùng với nhiều kiến trúc cổ đặc sắc như cầu đá, cổng làng... đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo, tinh túy của ngôi đình cổ. Năm 1797, làng dựng thêm tòa hậu cung để làm nơi thờ phụng Thành hoàng của làng. Trong quá trình tồn tại và phát triển, đình được tu sửa vào các năm: 1637, 1677, 1787, 1913 và đến năm 1929 đình được trùng tu to đẹp như hiện nay. Các giai đoạn tu sửa được văn bia ở đây ghi rõ. Đến nay, địa phương vẫn còn truyền miệng nhiều thơ ca dân gian phản ánh phần nào không khí sôi động của làng trong lần tôn tạo, xây dựng đình năm 1929 như sau: “Bấy giờ họp xã đinh, tiền Người bỏ vô điện, người bỏ vô đình Dưới trên ai nấy thuận tình Trống đánh rập rình reo ca cả đêm Ba năm kéo gỗ một miền Đắp nền thuê thợ tức thì làm ngay”. Đến đầu năm 1930, việc trùng tu lại đình được hoàn thành. Đình có kiến trúc thời Nguyễn quy mô đồ sộ, dài 24,7 mét; rộng 11,2 mét. Khung sườn nhà được làm bằng gỗ lim, kích thước lớn. Về nghệ thuật, trên tất cả các bộ phận của đình như bờ nóc, con xô, xà, hạ, kẻ... đều được các nghệ nhân trang trí một cách công phu, thể hiện được tài nghệ điêu khắc, chạm trổ cao. Trên bờ nóc, con xô và hai mảng tường bít đốc, bằng các chất liệu sΩn có tại địa phương như vôi vữa và mật mía được các nghệ nhân trộn lẫn để đắp các hình tượng rồng chầu, phượng múa bằng những mảng phù điêu sinh động. Trang trí trên gỗ, đề tài thể hiện ở đây cũng xoay quanh những mô típ quen thuộc như: " Tứ linh", " Tứ quý", nhưng bằng sự bố trí các mảng một cách hài hòa cân đối, toát lên vẻ sinh động thu hút người xem. Đình do 2 hiệp thợ thi công, nửa đình phía Đông do thợ Diễn Châu đảm nhận, nửa phía Tây được giao cho hiệp thợ Yên Thành. Sau khi thống nhất khuôn mẫu và kích thước, hai bên tiến hành làm trong một thời gian theo quy định, nhưng phải giữ kín bí mật, không được trao đổi với nhau. Sau khi các vầy đình sàm đục xong, làng đã quyết định chọn ngày dựng đình, mỗi bên huy động khoảng 300 người, dùng dây tre bện lại với nhau để kéo, khi có hiệu lệnh cả hai bên đều kéo vầy đình lên cùng một lúc. Mặc dù làm bằng phương pháp thủ công, nhưng khi dựng lên hai phần đình đều khít với nhau và các cột đình đều đứng ngay giữa hòn đá tảng. Rồng đỏ thợ Diễn Châu điêu khắc. Rồng đỏ thợ Yên Thành điêu khắc. Trong đình có kiến trúc độc đáo, châm trổ tinh vi. Nghệ thuật điêu khắc của các nghệ nhân xưa tạo nên nét đẹp riêng của Đình Sừng. Có một điều khá thú vị, là đình do hai tốp thợ làm theo một mô típ đã định sẵn, nhiều mảng chạm trổ tuy cùng một đề tài, song thần thái, cách thể hiện lại hoàn toàn khác nhau. Điểm chung là tất cả đều toát lên tính nhân văn sâu sắc, thể hiện truyền thống của một dân tộc, đó là : Thanh cao, tinh khiết, thủy chung, thuần hậu, kiên cường và tâm hồn hướng thiện. Trải qua bao biến cố thăng trầm lịch sử, đình Sừng vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ gắn liền với những chứng tích lịch sử của đất và người Quỳ Lăng. Trong những năm 1930-1931, đình là địa điểm hội họp bí mật của chi bộ Quỳ Lăng - một trong những chi bộ đầu tiên ở huyện Yên Thành. Trong khoảng thời gian 1932-1033, thực dân Pháp đã lấy đình Sừng làm nơi đóng đồn bang tá. Tại đây, bọn chúng đã giam cầm, bắt bớ tra tấn trên 100 cán bộ đảng viên. Ngày 12/8/1945, tại ngôi đình cổ quần chúng nhân dân Quỳ Lăng đã tập trung tổ chức cướp chính quyền từ tay phong kiến, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc vận động lớn như: Tuần lễ vàng, tuần lễ vũ khí, công phiếu kháng chiến, công phiếu quốc gia, là trường học, nơi chứa thóc cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, có thời gian dài, đình là nơi đóng xưởng dệt của Quân khu 4. Nhưng từ sau những năm 1930 – 1931, các kiến trúc cổ quanh đình đã dần bị mất mát và hư hỏng. Đặc biệt là từ khi công trình thủy lợi Vách Bắc được đào đắp, xây dựng vào năm 1978, vùng đất này thường xuyên bị lũ lụt kéo dài nên làng mạc, chợ búa ở quanh đình phải dời đi nơi khác, cảnh quan quanh đình cũng dần thưa thớt. Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa địa phương như tế thần, rước kiệu, hát ả đào, hát chèo, vật cù lộ, đồng thời, đình còn là nơi tổ chức hội họp của các đoàn thể, tổ chức địa phương. Trước đây đình Sừng trước đây có 5 công trình là Đình, Hậu cung, nhà Tả vu – Hữu vu và một nhà Miếu nhưng nhà Tả vu và Hữu vu đã bị dỡ để làm trường học nên hiện nay còn 3 hạng mục công trình là Đình, Hậu cung và nhà Miếu được làm theo lối kiến trúc thời Nguyễn. Đình còn có một mảnh vườn diện tích 4.206m2 được trồng rau, cây ăn quả xung quanh là một lớp bờ rào bằng cây xanh. Các họa tiết trên bít đốc mái Đình Sừng Tòa đình hai đầu xây tường bẻ góc về phía trước còn hai mặt trước sau để trống. Trên bờ nóc trang trí rất đơn giản, phía ngoài trang trí giống bốn góc mái đều là các đầu đao dạng vân mây, giữa là hình ảnh lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu tường bít đốc đắp nổi các họa tiết rồng cách điệu rất sinh động. Trong khi bít đốc phải đắp nổi hình tượng rồng rất đơn giản, rõ nét thì bít đốc phía trái được trang trí có vẻ rườm rà nhưng vẫn rất sắc sảo và tinh tế. Đình dài 24,7m, rộng 11,2m, quay mặt về phía Nam, khung làm hoàn toàn bằng gỗ lim, kích thước lớn, lợp ngói âm dương. Nền nhà được làm bằng đất sạn sỏi, có độ cứng cao, móng đình cao hơn 0,5m so với sân và vườn đình. Xung quanh móng được giằng bằng đá ong. Đình có 2 bia đá được khắc chữ 2 mặt, dụng vào năm 1637, ghi lại lịch sử dựng đền, thời gian tu sủa và sự đóng góp của mọi người.Bia có kiểu dáng đơn giản, mảnh mai và còn nguyên vẹn. Qua tòa đình là khoảng sân lộ thiên rộng 8m là đến nhà Hậu cung. Theo tài liệu kiểm kê di tích năm 1964, thì ban đầu, nhà Hậu cung gồm có 3 gian, với diện tích là 81,6m2. Khung nhà cũng dược làm hoàn toàn bằng gỗ lim, mái lợp ngói âm dương, 3 phía xây tường, đóng mở bằng cửa bàn khoa. Trên các xà, kèo được chạm lộng tinh vi, sắc xảo. Phía trước đắp phù điêu tượng quan văn, quan võ ở 2 bên tường. Trong nhà có bài trí 2 long ngai, 2 hương án và nhiều đồ tế khí đẹp, trong đó có một lư hương đá cao 0,24m được làm vào năm 1875. Nhưng do chiến tranh mà tòa hậu cung đã bị phá dỡ trong chiến tranh chống Mỹ. Ngoài ra, ngôi đình cổ này còn nhiều công trình khác, tuy nhiên đến nay, ngôi đình chỉ còn lại một số công trình chính cùng văn bia, đây trở thành một địa điểm diễn ra các lễ hội, cuộc vui của làng. Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa địa phương như : tế thần, rước kiệu, hát ả đào, ca trù, hát chèo, vật cù lộ, là nơi tổ chức hội họp của các tổ chức đoàn thể... Năm 2004, Đình Sừng được công nhận Di tích văn hóa lịch sử cấp Quốc gia. Năm 2010, được sự hỗ trợ của nhà nước, chính quyền địa phương đã đầu tư trùng tu nâng cấp một số hạng mục, nhằm gìn giữ những tư liệu quý, giúp cho các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc của di sản văn hóa cổ và cũng là nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau. Có thể nói, Đình Sừng là một trong những công trình kiến trúc cổ, có quy mô đồ sộ, nghệ thuật trang trí, điêu khắc chạm trổ đẹp vào loại bậc nhất ở Nghệ An. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, năm 2004, Đình Sừng đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Đến năm 2010, được sự hỗ trợ của nhà nước, chính quyền địa phương đã đầu tư trùng tu, nâng cấp một số hạng mục, nhằm giữ gìn những tư liệu quý, giúp cho các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc của di sản văn hóa cổ và cũng là nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau. Đình Sừng xứng đáng là điểm đến của du khách khi đến với xã Lăng Thành nói riêng, huyện Yên Thành nói chung, và là biểu tượng của lịch sử dân tộc tại huyện, chứng tỏ một làng quê trù phú bên dòng sông có từ thời xưa với những nét văn hóa dân tộc. Thái Dương Nguồn: Báo Nghệ An Ths Nguyễn Thy Ngà Nằm ở phía Bắc huyện Yên Thành, xã Lăng Thành có một ngôi đình cổ đã được nhiều người gần xa biết đến, có tên Đình Sừng. Cũng như bao ngôi đình khác của làng quê nước Việt, Đình Sừng xã Lăng Thành là ngôi đình lớn có giá trị kiến trúc và nghệ thuật, tồn tại trên 500 năm. Làng Quỳ Lăng xưa có tên gọi Kẻ Sừng, ngôi làng cổ ẩn mình trong thế độc đáo, có lợi thế trong chiến tranh và tiềm năng phát triển kinh tế, vì vậy Kẻ Sừng xưa đã sớm trở thành một trong những trung tâm của Châu Diễn. Khi nhà Đường lấy huyện Hàm Hoan trong châu để đặt ra Diễn Châu, làm thành một trong 12 châu của An Nam đô hộ Phủ năm 679, cho đến hết triều đại nhà Đinh năm 979, liên tục trong 3 thế kỷ, lị sở của Diễn Châu đóng ở Kẻ Sừng. Đình Sừng nằm giữa một vùng đất rộng bằng phẳng, bốn bề là những cánh đồng rộng lớn, tuy hơi xa nhưng cảnh quan nơi đây vẫn thoáng đãng, mát mẻ. Nằm cách đình một quãng về phía Đông là sông Dinh, 1 đoạn trong hệ thống tưới tiêu Vách Bắc, phía Tây là làng mạc, chợ búa sầm uất nằm xen giữa những vườn đồi và rừng cổ thụ bạt ngàn. Tòa đình khang trang Theo văn bia ghi chép lại: tháng 11/1583, nhân dân làng Quỳ Lăng đã hợp lực xây dựng một ngôi đình để làm nơi hội họp và sinh hoạt văn hóa. Nguyên xưa đình được làm bằng tranh tre, nứa lá nằm giữa một quần cư trù mật, quanh đình có làng mạc, cây đa, bến nước, có con sông Sừng uốn khúc như dải lụa mềm chở nặng phù sa tắm mát cho ruộng đồng. Cùng với nhiều kiến trúc cổ đặc sắc như cầu đá, cổng làng... đã tôn vinh vẻ đẹp độc đáo, tinh túy của ngôi đình cổ. Năm 1797, làng dựng thêm tòa hậu cung để làm nơi thờ phụng Thành hoàng của làng. Trong quá trình tồn tại và phát triển, đình được tu sửa vào các năm: 1637, 1677, 1787, 1913 và đến năm 1929 đình được trùng tu to đẹp như hiện nay. Các giai đoạn tu sửa được văn bia ở đây ghi rõ. Đến nay, địa phương vẫn còn truyền miệng nhiều thơ ca dân gian phản ánh phần nào không khí sôi động của làng trong lần tôn tạo, xây dựng đình năm 1929 như sau: “Bấy giờ họp xã đinh, tiền Người bỏ vô điện, người bỏ vô đình Dưới trên ai nấy thuận tình Trống đánh rập rình reo ca cả đêm Ba năm kéo gỗ một miền Đắp nền thuê thợ tức thì làm ngay”. Đến đầu năm 1930, việc trùng tu lại đình được hoàn thành. Đình có kiến trúc thời Nguyễn quy mô đồ sộ, dài 24,7 mét; rộng 11,2 mét. Khung sườn nhà được làm bằng gỗ lim, kích thước lớn. Về nghệ thuật, trên tất cả các bộ phận của đình như bờ nóc, con xô, xà, hạ, kẻ... đều được các nghệ nhân trang trí một cách công phu, thể hiện được tài nghệ điêu khắc, chạm trổ cao. Trên bờ nóc, con xô và hai mảng tường bít đốc, bằng các chất liệu sΩn có tại địa phương như vôi vữa và mật mía được các nghệ nhân trộn lẫn để đắp các hình tượng rồng chầu, phượng múa bằng những mảng phù điêu sinh động.Trang trí trên gỗ, đề tài thể hiện ở đây cũng xoay quanh những mô típ quen thuộc như: " Tứ linh", " Tứ quý", nhưng bằng sự bố trí các mảng một cách hài hòa cân đối, toát lên vẻ sinh động thu hút người xem.Đình do 2 hiệp thợ thi công, nửa đình phía Đông do thợ Diễn Châu đảm nhận, nửa phía Tây được giao cho hiệp thợ Yên Thành. Sau khi thống nhất khuôn mẫu và kích thước, hai bên tiến hành làm trong một thời gian theo quy định, nhưng phải giữ kín bí mật, không được trao đổi với nhau. Sau khi các vầy đình sàm đục xong, làng đã quyết định chọn ngày dựng đình, mỗi bên huy động khoảng 300 người, dùng dây tre bện lại với nhau để kéo, khi có hiệu lệnh cả hai bên đều kéo vầy đình lên cùng một lúc. Mặc dù làm bằng phương pháp thủ công, nhưng khi dựng lên hai phần đình đều khít với nhau và các cột đình đều đứng ngay giữa hòn đá tảng. Rồng đỏ thợ Diễn Châu điêu khắc. Rồng đỏ thợ Yên Thành điêu khắc. Trong đình có kiến trúc độc đáo, châm trổ tinh vi. Nghệ thuật điêu khắc của các nghệ nhân xưa tạo nên nét đẹp riêng của Đình Sừng. Có một điều khá thú vị, là đình do hai tốp thợ làm theo một mô típ đã định sẵn, nhiều mảng chạm trổ tuy cùng một đề tài, song thần thái, cách thể hiện lại hoàn toàn khác nhau. Điểm chung là tất cả đều toát lên tính nhân văn sâu sắc, thể hiện truyền thống của một dân tộc, đó là : Thanh cao, tinh khiết, thủy chung, thuần hậu, kiên cường và tâm hồn hướng thiện. Trải qua bao biến cố thăng trầm lịch sử, đình Sừng vẫn giữ được vẻ đẹp nguyên sơ gắn liền với những chứng tích lịch sử của đất và người Quỳ Lăng. Trong những năm 1930-1931, đình là địa điểm hội họp bí mật của chi bộ Quỳ Lăng - một trong những chi bộ đầu tiên ở huyện Yên Thành. Trong khoảng thời gian 1932-1033, thực dân Pháp đã lấy đình Sừng làm nơi đóng đồn bang tá. Tại đây, bọn chúng đã giam cầm, bắt bớ tra tấn trên 100 cán bộ đảng viên. Ngày 12/8/1945, tại ngôi đình cổ quần chúng nhân dân Quỳ Lăng đã tập trung tổ chức cướp chính quyền từ tay phong kiến, đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc vận động lớn như: Tuần lễ vàng, tuần lễ vũ khí, công phiếu kháng chiến, công phiếu quốc gia, là trường học, nơi chứa thóc cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong kháng chiến chống Mỹ, có thời gian dài, đình là nơi đóng xưởng dệt của Quân khu 4. Nhưng từ sau những năm 1930 – 1931, các kiến trúc cổ quanh đình đã dần bị mất mát và hư hỏng. Đặc biệt là từ khi công trình thủy lợi Vách Bắc được đào đắp, xây dựng vào năm 1978, vùng đất này thường xuyên bị lũ lụt kéo dài nên làng mạc, chợ búa ở quanh đình phải dời đi nơi khác, cảnh quan quanh đình cũng dần thưa thớt. Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa địa phương như tế thần, rước kiệu, hát ả đào, hát chèo, vật cù lộ, đồng thời, đình còn là nơi tổ chức hội họp của các đoàn thể, tổ chức địa phương. Trước đây đình Sừng trước đây có 5 công trình là Đình, Hậu cung, nhà Tả vu – Hữu vu và một nhà Miếu nhưng nhà Tả vu và Hữu vu đã bị dỡ để làm trường học nên hiện nay còn 3 hạng mục công trình là Đình, Hậu cung và nhà Miếu được làm theo lối kiến trúc thời Nguyễn. Đình còn có một mảnh vườn diện tích 4.206m2 được trồng rau, cây ăn quả xung quanh là một lớp bờ rào bằng cây xanh. Các họa tiết trên bít đốc mái Đình Sừng Tòa đình hai đầu xây tường bẻ góc về phía trước còn hai mặt trước sau để trống. Trên bờ nóc trang trí rất đơn giản, phía ngoài trang trí giống bốn góc mái đều là các đầu đao dạng vân mây, giữa là hình ảnh lưỡng long chầu nguyệt. Hai đầu tường bít đốc đắp nổi các họa tiết rồng cách điệu rất sinh động. Trong khi bít đốc phải đắp nổi hình tượng rồng rất đơn giản, rõ nét thì bít đốc phía trái được trang trí có vẻ rườm rà nhưng vẫn rất sắc sảo và tinh tế. Đình dài 24,7m, rộng 11,2m, quay mặt về phía Nam, khung làm hoàn toàn bằng gỗ lim, kích thước lớn, lợp ngói âm dương. Nền nhà được làm bằng đất sạn sỏi, có độ cứng cao, móng đình cao hơn 0,5m so với sân và vườn đình. Xung quanh móng được giằng bằng đá ong. Đình có 2 bia đá được khắc chữ 2 mặt, dụng vào năm 1637, ghi lại lịch sử dựng đền, thời gian tu sủa và sự đóng góp của mọi người.Bia có kiểu dáng đơn giản, mảnh mai và còn nguyên vẹn. Qua tòa đình là khoảng sân lộ thiên rộng 8m là đến nhà Hậu cung. Theo tài liệu kiểm kê di tích năm 1964, thì ban đầu, nhà Hậu cung gồm có 3 gian, với diện tích là 81,6m2. Khung nhà cũng dược làm hoàn toàn bằng gỗ lim, mái lợp ngói âm dương, 3 phía xây tường, đóng mở bằng cửa bàn khoa. Trên các xà, kèo được chạm lộng tinh vi, sắc xảo. Phía trước đắp phù điêu tượng quan văn, quan võ ở 2 bên tường. Trong nhà có bài trí 2 long ngai, 2 hương án và nhiều đồ tế khí đẹp, trong đó có một lư hương đá cao 0,24m được làm vào năm 1875. Nhưng do chiến tranh mà tòa hậu cung đã bị phá dỡ trong chiến tranh chống Mỹ. Ngoài ra, ngôi đình cổ này còn nhiều công trình khác, tuy nhiên đến nay, ngôi đình chỉ còn lại một số công trình chính cùng văn bia, đây trở thành một địa điểm diễn ra các lễ hội, cuộc vui của làng. Ngày nay, đình là trung tâm diễn ra nhiều hoạt động mang đậm bản sắc văn hóa địa phương như : tế thần, rước kiệu, hát ả đào, ca trù, hát chèo, vật cù lộ, là nơi tổ chức hội họp của các tổ chức đoàn thể... Năm 2004, Đình Sừng được công nhận Di tích văn hóa lịch sử cấp Quốc gia. Năm 2010, được sự hỗ trợ của nhà nước, chính quyền địa phương đã đầu tư trùng tu nâng cấp một số hạng mục, nhằm gìn giữ những tư liệu quý, giúp cho các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc của di sản văn hóa cổ và cũng là nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau. Có thể nói, Đình Sừng là một trong những công trình kiến trúc cổ, có quy mô đồ sộ, nghệ thuật trang trí, điêu khắc chạm trổ đẹp vào loại bậc nhất ở Nghệ An. Với những giá trị to lớn về lịch sử, văn hóa, năm 2004, Đình Sừng đã được công nhận là di tích lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Đến năm 2010, được sự hỗ trợ của nhà nước, chính quyền địa phương đã đầu tư trùng tu, nâng cấp một số hạng mục, nhằm giữ gìn những tư liệu quý, giúp cho các nhà khoa học tìm hiểu, nghiên cứu về nghệ thuật kiến trúc của di sản văn hóa cổ và cũng là nơi giáo dục truyền thống cho các thế hệ mai sau. Đình Sừng xứng đáng là điểm đến của du khách khi đến với xã Lăng Thành nói riêng, huyện Yên Thành nói chung, và là biểu tượng của lịch sử dân tộc tại huyện, chứng tỏ một làng quê trù phú bên dòng sông có từ thời xưa với những nét văn hóa dân tộc.Thái Dương Nguồn: Báo Nghệ AnThs Nguyễn Thy Ngà Trở về đầu trang Đình Sừng di sản kiến trúc Nghệ An 0 Tổng số: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10