Mỹ thuật thời cổ của người Việt Mỹ thuật thời cổ của người Việt 1. Những bức tranh hang động cổ xưa nhất của người Việt Trước khi biết dựng lều và xây nhà thì người nguyên thủy từng “đành phải” sống trong hang động (bởi không còn cách nào khác khả dĩ hơn để ngủ qua đêm an toàn). Giống như mọi đứa trẻ từng trải qua giai đoạn vô tư vẽ những nét nguệch ngoạc lên tường, thuở xưa người nguyên thủy cũng thích vẽ lên vách hang. Trên thế giới có những hang động nổi tiếng bởi lưu giữ những bức tranh “thoạt kỳ thủy” ấy như Altamira (Tây Ban Nha) hay Lascaux (Pháp). Việt Nam ta cũng có mấy bức loại này nhưng không phải là tranh vẽ mà toàn là những nét đục lõm vào vách đá. Về niên đại và nguyên do đục tranh, các nhà nghiên cứu vẫn còn đang tranh cãi… Chúng tôi chỉ xin lướt qua những căn cứ khoa học để tập trung luận bàn về nội dung và nghệ thuật của loại tranh cổ xưa nhất này của người Việt. 1 – Chỉ có mấy bức trong 2 hang mà đều do một bà Tây phát hiện từ thời Pháp thuộc Nữ tiến sĩ Madeleine Colani là nhà khoa học có công lao lớn đối với ngành khảo cổ và lịch sử khởi nguyên của Việt Nam. Từ đầu thế kỷ XX bà đã lặn lội hầu khắp miền Trung và Bắc Đông Dương (Việt Nam và Lào ngày nay) để khám phá ra nhiều di chỉ khảo cổ đặc biệt quan trọng. Đáng chú ý trong số đó có những bức tranh khắc tối cổ trên vách đá ở 2 hang Đồng Nội (Hòa Bình) và Thượng Phú (Quảng Bình) đều do bà phát hiện ra khoảng những năm 1929-1930. Bà và các nhà khoa học thuộc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (École francaise d’Extrême-Orient, viết tắt là EFEO) xếp các hình khắc này vào Văn hóa khảo cổ Hòa Bình với niên đại khoảng 1 vạn năm trước. Rất đáng nể bà Colani khi ở đầu thế kỷ XX, phần lớn nước ta chưa có đường sá giao thông hiện đại, chỉ có các lối mòn trong khi các hang động kể trên còn nằm sâu trong rừng già bạt ngàn. Sau này, người ta còn tìm ra nhiều hình khắc cổ khác nữa trên đá lộ thiên (chứ không phải trong hang) ở các tỉnh Lào Cai và Hà Giang nhưng một số nhà khảo cổ cho rằng chúng có niên đại muộn hơn, chỉ trước đây 4-5 thế kỷ, khi người H’Mong-Dao di cư xuống miền Bắc nước ta. Ngoài ra người ta còn tìm được một số hình chạm và nét vẽ cổ màu đỏ trên vách đá ở Ninh Bình với hình tượng Phật – như vậy chắc chắn có niên đại muộn, sau Công nguyên chứ không phải thời nguyên thủy. 2 – Tranh hang động của người Việt cổ “vẽ” cái gì? Nếu gọi là “bức tranh” thì không hẳn đúng vì đó không phải là hình vẽ mà là các nét chạm lõm vào vách đá, không có vết tô màu. Các hình khắc ở hang Đồng Nội thì không thành một bức tranh mà chỉ là các hình mặt người hay thú riêng rẽ nhưng hình tượng rất rõ, ai cũng có thể thấy và có thể đoán ra nên được chú ý nhiều hơn. Ngược lại, các nét khắc lõm ở hang Thượng Phú thì rất khó đoán nên ít được quan tâm nhưng lại có sắp xếp tổng thể gần với kiểu bức tranh hơn. Trái: Hình khắc trên vách măng đá hang Đồng Nội (Lạc Thủy, Hòa Bình), ảnh thời Pháp thuộc của bà Colani hoặc cộng sự (1929-1930); Phải: Bản vẽ giải thích “nhũ đá” (phía trên) và “măng đá” (phía dưới). Măng đá hang Đồng Nội rất to chứng tỏ niên đại hình thành từ rất xa xưa. Hình khắc trên vách măng đá hang Đồng Nội (Lạc Thủy, Hòa Bình). Bản đúc lại bằng thạch cao, tô màu giả rêu đá, trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Bản vẽ tổng hợp 4 hình chạm khắc trên vách măng đá hang Đồng Nội (Lạc Thủy, Hòa Bình). Hang Đồng Nội có tất cả 4 hình, trong đó có 1 hình nửa mặt người, 2 hình mặt người đầy đủ mắt-mũi-mồm, đường viền chu vi mặt, nhìn theo hướng chính diện, mọc thẳng trên đỉnh đầu là nét đục lõm hình chữ Y… Có người vui tính đoán là hình “ăng ten râu” kiểu người ngoài trái đất, có người đoán là kiểu sừng thú… Bà Colani (1927) và các nhà khảo cổ Przyluski (1932), Karlgren (1942) cho rằng đó là các hình “người-hươu” thể hiện đạo shaman nguyên thủy của người cổ thời văn hóa Hòa Bình. Chúng tôi ngả theo hướng một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là nét biểu hiện hình đôi lông trĩ hay lông công mà các thủ lĩnh bộ tộc ngày xưa đội trên đầu. Rất có thể các bộ tộc ấy thờ vật tổ (totem) là chim. Chúng ta có thể thấy các hình ảnh tương tự trên đầu Bạch Cốt Tinh trong truyện Tây Du Ký hay gần với sự thật hơn nữa là những hình chụp thủ lĩnh da đỏ Bắc Mỹ. Mặt khác, ta có thể thấy trên mặt các trống đồng Đông Sơn có những hình người Việt cổ luôn đội lông chim trên đầu – nhiều bộ tộc Việt cổ từng thờ vật tổ là chim mà một số tài liệu nghiên cứu gọi là “chim Lạc”. Hình thứ tư trong hang Đồng Nội là hình kiểu mặt thú: râu dê, mắt mở tròn xoe, mũi kiểu lợn với 2 lỗ mũi hướng thẳng về phía trước, phía trên rất giống đôi lông mày đậm nét nhưng có người bảo có thể đó là cặp sừng cong. Có một hiệu quả tạo hình đáng chú ý: trong khi 2 mặt người rưỡi trông vô cảm thì mặt con thú này lại sinh động – nó luôn có vẻ hân hoan, mắt tròn xoe kinh ngạc, miệng cười ngoác… Hang Thượng Phú có 2 cụm hình khắc nét lõm mà nếu căn cứ vào cách sắp xếp bố cục kiểu mỹ thuật thì ta có thể coi đó là 2 “bức tranh”. Chính người viết bài này, cách đây một số năm đã giải mã được 1 trong 2 bức: đó là cảnh chó săn hươu – một phương thức đi săn của người Việt cổ. Phía trên cùng là một hình con hươu đang chạy từ phải sang trái. Bên dưới, góc phải ló lên 2 đầu chó săn với đôi tai dựng đứng điển hình kiểu chó. Không thấy cả thân và chân 2 con chó này, có lẽ “dụng ý tác giả” cho chúng náu mình trong cỏ cây? Nhưng quyết liệt nhất, ở giữa tranh, là một con chó đang phi sát bên cạnh chân hươu – hướng chạy cùng chiều, chúc xuống tạo cảm giác nó đang mở hết tốc lực – bức chạm vì vậy truyền cảm được hơi thở của cuộc sống dù chỉ toàn những nét lõm chưa hoàn hảo. Thuở mới được tạc, trong ánh lửa bập bùng soi, chắc bức chạm còn sinh động hơn nhiều trong mắt các thành viên của bộ lạc nguyên thủy. Bức chạm thứ 2 của hang Thượng Phú cho đến nay vẫn chưa ai giải mã được, nó gồm toàn những đường nét trừu tượng và bí ẩn nhưng chắc chắn do con người tạo ra chứ không phải ngẫu nhiên của thiên nhiên. Trái: Hình khắc trên vách hang Thượng Phú (Quảng Bình), cao khoảng 55cm; phải: bản vẽ giải trình nội dung tranh (của họa sĩ Đức Hòa) Trái: Hình khắc thứ 2 trên vách hang Thượng Phú (Quảng Bình), cao khoảng 55cm, bản đúc lại, bày trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam (Bác Cổ, Hà Nội); phải: Bản vẽ giải trình các nét khắc chính của tranh này (hiện chưa giải mã được nội dung). 3 – Dùng chó săn hươu – phương thức đi săn cổ truyền của người Việt cổ Có khá nhiều bằng chứng cho nhận định trên: những hình trang trí đúc trên rìu đồng Đông Sơn. Hiện có nhiều rìu đồng Đông Sơn trong các bảo tàng và các sưu tập tư nhân. Một số đáng kể rìu đồng được trang trí theo công thức: diềm hoa văn kỷ hà (hình học) bao quanh theo hướng chạy song song với các cạnh của lưỡi rìu; ở giữa là một con chó đang dũng cảm chặn 2 con hươu lại. Sát bên trên có hình 2 người – thợ săn thời Đông Sơn đang reo hò trên chiếc thuyền độc mộc để gây áp lực dồn đuổi hươu. Cảnh tượng thật là sinh động dù các đường nét buộc phải cô đọng: không có chỗ để vẽ vời miêu tả dài dòng. Căn cứ vào rất nhiều hình “chó săn hươu” trên rìu đồng cổ, chúng tin rằng đây là phương thức săn thú cổ truyền của tổ tiên ta. Tuy nhiên có giả thuyết đưa ra lật lại vấn đề: chắc gì bức chạm cảnh săn hươu trên vách đá đã là tối cổ? Nếu nó được chạm chỉ cách đây mấy thế kỷ thì sao? Bởi vẫn còn đó, ngay tại miền Tây tỉnh Quảng Bình có nhóm người Rục chỉ mới được bộ đội tìm thấy năm 1959, hướng dẫn họ rời khỏi hang đá, lập làng, dựng nhà, làm nương, trồng lúa… Nhưng họ vẫn ưa thích sống trong hang hơn nên cứ đến mùa rẫy họ lại rời làng vào hang ở gần rẫy. Trước 1959 họ chỉ quen săn bắt – hái lượm. Và biết đâu chính họ từng khắc cảnh đi săn trên vách hang Thượng Phú chỉ vài thế kỷ trước? Chưa ai dám khẳng định hay bác bỏ giả thuyết này (xin luận bàn sâu hơn về kiểu săn này ở bài sau – về các hình trang trí trên rìu đồng cổ). Chỉ xin lưu ý: theo các nhà nghiên cứu, người Rục nói một thứ tiếng Việt rất cổ, dân tộc này đã tách ra khỏi nhóm Việt-Mường từ khoảng giữa thời Bắc thuộc. 4 – Kỹ thuật chạm chìm của các tranh vách hang cổ nhất Việt Nam Các nét lõm trên vách hang Thượng Phú có độ sâu khoảng 0,3 đến 0,5cm trong khi ở hang Đồng Nội thì sâu hơn, có mấy chỗ sâu tới 1,5cm, thậm chí 2cm. Nét đục trên vách măng đá hang Đồng Nội rộng hơn nét trên vách hang Thượng Phú. Như vậy đã có 2 kỹ thuật đục nét lõm khác nhau. Có người đặt câu hỏi: vậy người xưa lấy gì để đục nét vào vách đá? Dùng đá cứng (thời đồ đá chỉ có dụng cụ bằng đá mà thôi) miết lõm dần lên vách hang mềm hơn? Cũng có thể nhưng rất lâu đấy. Tiến sĩ Nguyễn Việt lại cho rằng người xưa đã dùng đục kim loại để tạc nên nét sâu hơn, đôi chỗ rộng bản hơn. Vách măng đá là đá vôi non nên cũng khá mềm, dễ đục. Cũng theo ông thì hình chạm hang Đồng Nội chỉ khoảng thế kỷ II trCN, do tàn quân Âu Lạc tạo ra khi làm lễ cầu cúng trên đường chạy vào Thanh Hóa qua ngả Hòa Bình sau khi nước Âu Lạc bị Triệu Đà diệt. 5 – Số phận của các bức chạm Hiện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đang trưng bày những tiêu bản một cách rất khoa học: không thể dỡ vách hang đá thì họ đúc lại bằng thạch cao, tô sơn giả màu đá và rêu, có chú dẫn cẩn thận. Dù niên đại của các bức tranh hang động Việt Nam còn đang tranh cãi thì đây vẫn là những trang tiền sử thú vị của mỹ thuật dân tộc. Tuy nhiên lại có câu chuyện buồn: một cán bộ già (nay đã từ trần) xưa từng làm nhân viên của Viễn Đông Bác Cổ thời Pháp thuộc rồi Viện Mỹ thuật thời chế độ ta, cách đây mấy chục năm từng kể cho người viết bài này về chuyến đi điền dã sau năm 1975 để tìm lại hang Đồng Nội. Cụ và các đồng sự đã tới được hang nhưng không còn vết tích nào cổ cả: hang đã được dọn sạch hết mọi nhũ đá và măng đá bởi thời chiến tranh chống Mỹ trước đó, nơi đây được chọn làm kho đạn – nhiệm vụ chiến đấu là ưu tiên số một thời ấy – mà cũng chẳng ai quan tâm đến những vết tích cổ của tổ tiên… Ôi buồn quá, chỉ biết trách chiến tranh! 2. Cảnh chó đón hươu trên các rìu đồng Đông Sơn Tiếp nối bài trước “Những bức tranh hang động cổ xưa nhất của người Việt”, xin mời các bạn xem cảnh CHÓ ĐÓN HƯƠU trên các rìu đồng thời Đông Sơn. Tranh hang động và rìu đồng Việt cổ có liên quan vì cùng tả cảnh dùng chó săn hươu. Tất nhiên rất nhiều dân tộc trên thế giới đã dùng chó săn nhưng vấn đề ở đây là người Việt cổ đã chọn cảnh tượng này để vẽ ít nhất một lần trên vách hang rồi sau đó đã lặp lại nhiều lần trên các rìu đồng cổ. Rìu là công cụ rất phổ biến của người Đông Sơn. Tạo dáng rìu đồng cổ cũng phong phú và hiện còn rất nhiều tiêu bản tại các bảo tàng và sưu tập tư nhân. Cũng như các dân tộc sơ khai khác, người Việt cổ rất thích làm đẹp cho các đồ vật quý của mình: tạo dáng, mài nhẵn, đánh bóng, trang trí và thậm chí còn “vẽ” được cả quang cảnh của một buổi đi săn sôi động trên lưỡi rìu đồng. Cảnh săn hươu của người Việt cổ, hình đúc trên rìu đồng Đông Sơn. Chó săn chặn đầu hươu, phía trên (ước lệ là đằng xa) 2 thợ săn đang reo hò trên thuyền để gây áp lực. Trái: lưỡi rìu xéo gót vuông, mạ vàng do C.Huet sưu tầm tại Quốc Oai, Hà Tây hiện bày tại Bảo tàng Nghệ thuật Brussel, Bỉ. Phải: lưỡi rìu hình chiếc hia, 12 x 11 cm, Bảo tàng nhân học (Volkerkund Museum), Thủ đô Viên, Cộng hòa Áo. Kể từ đây, tôi muốn hướng các bạn yêu mỹ thuật vào Những bức tranh trang trí trên đồ đồng của người Việt cổ. Sau 2000 năm, các cổ vật thời Đông Sơn có lẽ đã mất mát phần lớn! Thế mà các bức tranh ở dạng trang trí trên đồ đồng vẫn còn phong phú lắm, súc tích lắm. Sở dĩ tôi đang cố gắng làm điều này vì trước đây, khi còn dạy môn Lịch sử Mỹ thuật, đã có phụ huynh – cũng là đồng nghiệp – muốn tôi dẫn đến Bảo tàng Lịch sử để chỉ tận chỗ cái hiện vật có thể là dẫn chứng điển hình cho trang phục dân tộc thời Đông Sơn. Từ đó họ mới nhận ra rằng đồ đồng Việt cổ để lại cho chúng ta ngày nay khá nhiều thông tin về xã hội, văn hóa, kỹ thuật, trang phục, nghi lễ… của tổ tiên. Những lưỡi rìu có tạo dáng kỳ lạ thời Đông Sơn. 1 – Tạo dáng rìu Đông Sơn rất phong phú, đôi khi có vẻ… kiểu cách. Ở buổi đầu sơ khởi của dân tộc, rìu chiến là vũ khí quan trọng nên được sản xuất hàng loạt. Bằng chứng là ngày nay, sau hơn 2000 năm, dù bị mất mát và hủy hoại vô cùng nhiều mà vẫn còn vô số tiêu bản trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân. Từ rìu đá cho đến rìu đồng, khởi đầu chỉ là công cụ hay vũ khí nhưng càng về sau càng được chăm chút như một tác phẩm nghệ thuật – nó là niềm tự hào và vẻ đẹp của các chiến binh. Thậm chí về sau nữa, có những chiếc rìu dường như chỉ dùng vào việc cúng tế – không có tính thực dụng vì rất khó chặt, chém mà tạo dáng lại quá kiểu cách, có rìu còn đúc thêm hình con chim nhỏ xíu đang đậu nữa – thật là điệu đà hết sức! Phải: Lưỡi rìu đồng Đông Sơn (có một phần cán gỗ) trong sưu tập của Đoàn Anh Tuấn. Chiều ngang hơn 12cm, bản rộng 6,5cm. Trái: Trích đoạn cảnh đi săn, chó chặn đầu 2 con hươu, phía xa 2 thợ săn đang hò reo trên thuyền độc mộc. Trái: Lưỡi rìu đồng Đông Sơn trong sưu tập của Đoàn Anh Tuấn. Chiều ngang hơn 10cm, chiều cao của lưỡi rìu 6,5cm. Phải: Trích đoạn cảnh đi săn, chó chặn đầu 2 con hươu, phía xa 2 thợ săn đang hò reo trên thuyền độc mộc. 2- Những lưỡi rìu hình chiếc hia có gót vuông được trang trí đặc biệt Thời Đông Sơn người ta từng đúc nhiều kiểu lưỡi rìu, từ nhỏ xíu để làm đồ minh khí – tùy táng cho đến to nhất tương đương một bàn tay. Đẳng cấp nhất là loại rìu hình như chiếc hia có gót gần như vuông, thường to cỡ nửa bàn tay. Trong số đó có những chiếc được đặc biệt trang trí bằng những nét đúc trên bề mặt. Phổ biến là cảnh dùng chó săn hươu với các diềm trang trí bao quanh 3 mặt, khớp theo các cạnh của lưỡi rìu. Đó là các đường diềm trang trí hình ô trám nối tiếp mà dân chơi đồ cổ gọi là hoa văn “trám lồng” – chúng được tạo thành do các đường zic zăc đối lập và đan xen, tạo thành hình hình học dạng con thoi nối tiếp nhau. Vẻ đẹp kiểu hoàn toàn trừu tượng này bao quanh bức tranh mà các nghệ nhân cổ muốn kể lại một cách hiện thực nhất có thể, vào thời cổ đại cách đây hơn 2.000 năm. Rìu đồng Đông Sơn trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia có đúc cảnh chó chặn đầu hươu trong khi 2 thợ săn đang hò reo trên thuyền độc mộc bên trên. Cảnh săn hươu trên rìu Đông Sơn nhưng không hiểu tại sao con chó này lại chạy cùng chiều với hươu (?) Phía trên (tả lớp cảnh phía xa) là 2 thợ săn đang reo hò trên thuyền độc mộc. 3- Dùng chó săn hươu – bức tranh hiện thực sơ khai nhất, được “tái bản” vô số lần. Bạn hãy tưởng tượng lại quang cảnh điển hình của đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Mã cách đây hơn 2000 năm – tức là vào thời Đông Sơn. Đang kỳ biển thoái, mực nước biển hạ dần, đồng bằng trẻ nổi lên, vô số sông, ngòi, rạch, lạch nước bao quanh các bãi đất xâm xấp, mọc đầy lau sậy, sú, vẹt… Hươu đi ăn từng đàn – tất nhiên đó là mồi ngon cho các thú ăn thịt. Nhưng trong khi cá sấu, hổ, báo dư sức phục kích hay truy đuổi con mồi thì loài người yếu ớt khó lòng theo kịp, đành phải viện đến mưu mẹo. Minh họa giải trình cảnh chó săn chặn đầu đàn hươu trong khi phía xa 3 thợ săn đang ngồi gõ que tre và hò reo trên thuyền độc mộc. Người dùng thuyền độc mộc với các tay chèo cơ bắp cuồn cuộn để bao vây, tiếp cận bãi nổi có đàn hươu. Càng nhiều thuyền càng dễ bao vây. Nhưng hươu bao giờ cũng có khả năng tẩu thoát xuất sắc: chúng chạy cực nhanh và bơi vượt qua sông ngòi ngon lành. Đúng lúc ấy loài người tìm thấy đồng minh trong nghề đi săn: con chó. Ưu điểm của chó thì sách báo đã phân tích nhiều, xin miễn nói thêm. Ở đây chỉ xin nhấn mạnh: chó săn đã được tổ tiên ta sử dụng xuất sắc vào điểm yếu nhất của con người trong cuộc săn: chặn đầu. Các thợ săn Đông Sơn phán đoán hướng tẩu thoát của đàn hươu, thả chó đúng điểm cần thiết. Các thuyền độc mộc bao vây, thợ săn hô hoán làm áp lực dồn đuổi, chỉ chừa ra một hướng đã có đàn chó đón lõng. Thừa dịp đàn hươu đang ngỡ ngàng vì bị chặn đứng, các thuyền săn đủ thời gian tiếp cận, mũi lao và cung nỏ đủ tầm phát huy tác dụng – vậy là người Việt cổ chiếm được nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng nhất! Minh họa giải trình cảnh chó săn chặn đầu đàn hươu trong khi phía xa 2 thợ săn đang đứng hò reo trên thuyền. 4 – Vậy tại sao người ta đúc cảnh đi săn nhiều đến thế trên các rìu chiến cổ? Đây là tín ngưỡng sơ khởi với ý làm thiêng hóa sự cầu may. Những bức tranh hang động trên khắp thế giới, từ Âu sang Á tới Phi rồi Úc thường nhất loạt vẽ các thú lớn – nguồn protein trọng yếu của con người. Các nhà nghiên cứu hiện đại đã tìm ra lý do: không phải vẽ vì cái đẹp mà nhằm mục đích phù phép – khẩn cầu để bắt cho được các thú lớn đó. Người ta từng chứng kiến một số bộ lạc lạc hậu hồi đầu thế kỷ XX vẫn còn vẽ thú lớn lên vách đá hay trên mặt đất để phù thủy của bộ lạc phù phép – bắt mất hồn của con vật, trong khi các thợ săn nhảy múa, hú hét, dứ dứ vũ khí trên hình con vật. Chỉ sau đó họ mới yên tâm đi săn. Các rìu chiến được đúc cảnh dùng chó săn thú cũng không ngoài mục đích kể trên! Trước khi đi săn, thổ dân Úc dùng biện pháp ma thuật: vẽ hình con vật định săn xuống đất rồi nhảy múa, hú hét và phóng lao vào hình vẽ. Họ tin rằng làm như vậy sẽ khiến con vật tổn thương và bị họ bắt mất “hồn”… do vậy mà cuộc đi săn sau đó sẽ thuận lợi hơn nhiều. Nguồn: sách Iscustvennaya Istoria Mira – Lịch sử nghệ thuật thế giới (tiếng Nga). 5 – Chuyện kể của bà tôi: cuộc săn của cả làng đầu năm 1947. Vào thời điểm dân phố thủ đô tản cư về các miền quê quanh Hà Nội. Bà tôi dắt díu gia đình lên “mạn ngược” và đầu năm 1947 tới tỉnh Tuyên Quang. Bất ngờ một ngày nọ, cả nhà bị dân một làng mừng rỡ bắt buộc (vì họ thiếu người) phải tham gia bao vây một khu rừng. Mỗi người được phát 2 que tre to – phải vừa hò hét vừa đập que tre vào nhau trong khi vòng vây của cả làng khép dần quanh khu rừng. Chó làng sủa ran hòa lẫn tiếng cồng chiêng, tiếng đập tre nứa và tiếng hú hét uy hiếp con thú. Rừng giáp một bên sông, phía ấy đã có các thuyền và thợ săn quây chặt. Cuối cùng con thú chạy qua lối thoát duy nhất mà người ta cố tình chừa ra để nó phải sập bẫy. Xong việc, bà định đi tiếp nhưng lệ làng bắt buộc phải ở lại cho đến khi thịt xong con thú. Kết quả chia đều: mỗi người tham gia, bất kể già-trẻ-lớn-bé được một miếng thịt to bằng ngón chân cái! Kể chuyện này để thấy cách phối hợp của người Việt cổ vẫn tồn tại dai dẳng đến tận nửa đầu thế kỷ XX. 6 – Những bức tranh hiện thực mà tổ tiên để lại cho con cháu ngàn sau… Có người chê “bức tranh” gì mà bé tí? lại chỉ có mấy nét đơn sơ? Riêng tôi ngậm ngùi xúc động: vâng, so với ngày nay thì nói làm gì – người ta có thể đúc ra những bức tranh nét nổi tinh vi và phức tạp để tả lại câu chuyện hay hơn thế hàng triệu lần! Trích đoạn một rìu đồng Đông Sơn có cảnh chó chặn đầu hươu trong khi 3 thợ săn đang ngồi gõ que tre trên thuyền độc mộc bên trên. Nhưng các rìu chiến đúc hình “chó đón hươu” ấy là thành quả kỹ thuật đặc biệt nhất của tổ tiên ta thuở sơ khai, cách đây khoảng từ 2700 năm đến 2000 năm, vào thời các nghệ nhân đang mầy mò đúc đồng để trang bị cho các chiến binh Việt cổ những chiếc rìu cận chiến sắc bén nhất, đẹp đẽ nhất, thiêng hóa nhất (và chưa biết chừng đã được phù thủy bộ lạc phù phép) để săn thú sao cho hiệu quả nhất. Chuyện dông dài, bao la được rút gọn lại trong mấy nét cô đọng như dạng tín hiệu mà ý tứ vẫn rõ ràng, lại được bao quanh bởi 3 diềm trang trí rất đẹp như làm khung để tôn vinh bức tranh săn hươu vất vả mà đầy hiệu quả. Đó chính là câu chuyện nghệ thuật của tổ tiên ta! Và thật tự hào cho nhà sưu tập nào có trong tay một chiếc rìu như vậy… 3. Những bức tượng sơ khai nhất của người Việt cổ Ngay ở buổi bình minh của dân tộc, các tiền bối của người Việt cổ đã quen “nghịch đất” và thử “nặn tượng”. Bằng chứng là qua các cuộc khai quật khảo cổ ở thời hiện đại, thế hệ con cháu mấy trăm đời sau còn tìm thấy một số “bán thành phẩm” điêu khắc của tổ tiên – hầu hết đều… chưa nặn thành hình. Bên cạnh đó còn có tượng đá, số lượng rất ít nhưng đáng chú ý ở chỗ rất rõ hình tượng và được coi gần như đã làm xong. Ở đây tôi chỉ xin bàn đến các tượng đá và đất nung – còn tượng đồng thì muộn hơn và công nghệ cũng đã cao hơn (vì phải nặn mẫu xong làm khuôn rồi mới tới công đoạn nấu đồng và đúc rót…). Ngày nay chúng ta đã có cả một “nền Điêu khắc Việt Nam” với nhiều thành tựu, thiết tưởng cũng nên nhìn lại để đánh giá bước khởi đầu chập chững vào nghề của tổ tiên chứ nhỉ? 1. Những tượng đất nung bé xíu và như đang nặn dở Các nhà khảo cổ đào được khá nhiều mảnh vụn… nghi vấn là tượng đất nung trong các cuộc khai quật những di chỉ thuộc các Văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun (chỉ riêng tại di chỉ Thành Dền đã đào được tới 114 tiêu bản). Căn cứ vào những gì đã chính thức công bố thì chỉ có tượng động vật – mà nhiều khả năng đó là các vật nuôi như trâu, bò, lợn, gà, vịt… Chưa hề tìm thấy tượng người hay các “đề tài khác” bằng đất nung. Đó là những tượng rất nhỏ, kích thước chỉ vài cm, đều ở mức độ chưa hoàn thiện khiến đời sau phải đoán xem đó là con gì. Chỉ rất ít tượng còn nguyên, phần nhiều vỡ vụn, gãy các chi tiết. TƯỢNG GÀ, đất nung, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500- 1000 trCN), hiện vật Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Bác Cổ, Hà Nội), ảnh Nguyễn Hoài Nam “Nổi tiếng” nhất trong số này – vì được bày trong Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Bác Cổ – Hà Nội) là mấy tượng gà, bò (hoặc trâu), thuộc Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu. Tạo dáng gà khá rõ: đầu, cổ, thân và đuôi. Thậm chí tư thế con gà vươn cổ, vểnh đuôi một cách điển hình kiểu gà chứng tỏ người nặn đã quan sát gà rất kỹ, bắt dáng được con gà. Tuy nhiên tượng gà vẫn như chưa xong vì thiếu chân, mào, mỏ – rất có thể đã được nặn rồi lại gẫy vì bị vùi trong lòng đất mấy ngàn năm… Tuy nhiên khả năng nặn chưa xong thì hợp lý hơn, căn cứ vào vết tích còn lại và cũng căn cứ vào trình độ hết sức sơ khai của người Đồng Đậu khi đó. Còn tượng bò thì tùy: có tài liệu bảo đó là trâu – bởi tạo dáng còn đang dang dở, chưa rõ những đặc điểm cốt yếu để khẳng định là một trong 2 con vật này như kiểu sừng, u bò, yếm bò (mà trâu không có)… TƯỢNG LỢN và BÒ (đoán định), đất nung, dài 2 – 5,5cm, dày 1 – 3cm, di chỉ Thành Dền, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500-1000 trCN). Nguồn ảnh: “Địa điểm khảo cổ học Thành Dền – những giá trị lịch sử – văn hóa nổi bật”, Lâm Thị Mỹ Dung chủ biên, NXB ĐHQG HN 2015 TƯỢNG LỢN và BÒ (đoán định), đất nung, dài 2 – 5,5cm, dày 1 – 3cm, di chỉ Thành Dền, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500-1000 trCN). Nguồn ảnh: “Địa điểm khảo cổ học Thành Dền – những giá trị lịch sử – văn hóa nổi bật”, Lâm Thị Mỹ Dung chủ biên, NXB ĐHQG HN 2015 Dù sao các tượng bò và gà kể trên cũng đã là loại “khá” lắm bởi đa số các tượng đất nung còn lại sau các cuộc khai quật đều “kém hơn nữa” về tạo hình. Nếu chúng ta có ý định “chiêm ngưỡng tác phẩm điêu khắc” thì nhiều khả năng sẽ đành nản lòng! Tuy vậy, các tượng này chí ít vẫn để lại cho chúng ta một vài thông tin hữu ích. Thứ nhất: cỡ tượng rất nhỏ, chỉ vài phân (cm). Thứ hai: được làm nhân thể khi người ta làm gốm, tranh thủ nặn chơi chút cho vui rồi đem nung kèm. Có một số phán đoán: nặn chơi, nặn để làm kiểu tượng bùa, nặn làm đồ chơi cho trẻ con… mà cũng có thể chính trẻ con mới là “tác giả” – nặn để chơi. Một số mảnh tượng đất nung Văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên. Nguồn ảnh: sách “Đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên”, Bùi Thị Thu Phương, NXB Chinh trị QG 2015 Tưọng đầu bò, đất nung, di chỉ Tiên Hội, Đông Anh, Hà Nội, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500-1000 trCN). Nguồn ảnh: sách “Hà Nội thời Hùng Vương – Anh Dương Vương”, Trịnh Sinh, NXB Hà Nội 2010 Hiện vật của Bảo tàng Đền Hùng, đất nung, ảnh Đức Hòa Một số mảnh tượng đất nung – di vật Văn hóa khảo cổ Tiền Đông Sơn lưu vực sông Mã. Nguồn hình vẽ: từ sách “Cơ sở Khảo cổ học”, Hán Văn Khẩn chủ biên, NXB Đại học QG HN 2008 Nhìn rộng ra trong lịch sử thế giới, các nền văn minh tối cổ cũng để lại khá nhiều tượng đất nung cỡ nhỏ và không hoàn thiện. Người nguyên thủy trên bước đường chập chững vươn lên thành các dân tộc, quốc gia sơ khai hóa ra rất thích vẽ, nặn, đục đẽo… để tái tạo hình người và động vật mà họ thấy quen thuộc. Đây là quá trình nhận thức thế giới bằng cách tái tạo hình của người nguyên thủy. 2. Tượng đá rất ít nhưng tạo hình rõ ý đồ hơn Đó là bức tượng được đặt tên: “Người đàn ông Văn Điển” vì khai quật từ di chỉ cùng tên. Dù rất bé, chỉ cao có… 3,6cm, sẽ lọt thỏm nếu ta cầm trong tay nhưng tượng đá này được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia (Bác Cổ – Hà Nội) và được in rất nhiều lần trên các sách báo Việt Nam. Nếu các tượng đất đều có vẻ… nặn ẩu thì ngược lại – tượng đá này cho thấy sự công phu, trau chuốt. Dáng người đứng thanh mảnh, rất eo, các chi tiết được nhấn rất rõ nét: 2 mắt khoét lõm thành 2 chấm sâu, tròn đều, gờ ụ lông mày và gờ gò má cân đối, trong khi gờ sống mũi hơi nhô lên theo chiều dọc chính giữa mặt. Dù chỉ nhỏ như… đầu tăm nhưng “sinh thực khí nam” nổi lên rõ rệt, đúng chỗ! Đáng ngạc nhiên hơn nữa khi trên đỉnh đầu có búi tóc từ chính giữa đỉnh vểnh lên với chủ ý tạo hình chính xác: vạt phẳng đều hai mặt bên theo chiều đứng và hơi lượn cong lên về phía sau. Có giả thiết cho rằng đó không phải là búi tóc mà là một vành tròn – nếu không bị gãy thì sẽ để buộc dây vào như đeo bùa. Nếu quả đúng vậy thì tay nghề của nghệ nhân tạc đá này đã rất cao từ cách đây có thể tới 4000 năm! Cũng chưa ai chứng minh được đó là một vành tròn nhưng sự khúc triết, mạch lạc của chỏm tóc khiến đời sau phải để ý và có phần băn khoăn: thời thô sơ đến vậy mà sao có thể chế tác kỹ thế? Tất nhiên tượng chưa hoàn hảo: không tay, cụt chân, lại vẫn còn mảnh xỉ đá chèn vào một bên hông mà tác giả chưa xử lý được, có thể vì non tay nghề hoặc thiếu dụng cụ đủ cứng để cắt gọt… Tượng NGƯỜI ĐÀN ÔNG VĂN ĐIỂN – khai quật tại di chỉ Văn Điển, cao 3,6cm, đá quarzit mài nhẵn. Văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên, khoảng 2000-1000 trCN. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia VN (Bác Cổ-Hà Nội). Ảnh Hiểu Trần. Bên trái là giả thiết về phần vòng đã gãy trên đỉnh đầu – có thể là móc để treo tượng bùa (bản vẽ của Đức Hòa). Khuyên tai hình đầu trâu, di chỉ Đình Tràng, Đông Anh, Hà Nội, cao 2,4cm, ngang 2,7cm, đá ngọc nephrite. Văn hóa khảo cổ Gò Mun, khoảng 1100-700 trCN, Bảo tàng Nhân học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, ảnh Đức Hòa Một… tượng đá khác, mà đúng ra chỉ là dạng khuyên tai – trang sức. Tuy nhiên cách tạo hình lại rất công phu và gợi cảm: khuyên tai hình đầu trâu với đôi sừng cong vểnh sang hai bên. Rất thú vị khi nghệ nhân ngàn xưa đục lỗ xỏ xuyên qua vị trí sống mũi trâu! Nhìn nghiêng ta sẽ thấy như mắt trâu đang mở… Ngày nay, với công nghệ hiện đại, người ta có thể chế tác trang sức phức tạp hơn nhiều nhưng thuở sơ khai nguyên thủy thì đây quả là kỳ công: tinh tế, sáng tạo, đối xứng, trau chuốt… trong tình thế chắc chắn chưa có công cụ đủ tinh vi. Về màu sắc và chất liệu thì 2 tượng đá kể trên còn tăng thêm phần hấp dẫn vì được tạc từ loại đá có chất lượng ngọc nên có phần hơi long lanh và màu xám phớt xanh gợi cảm. 3. Nặn đất dễ hơn tạc đá – vậy tại sao tượng đá toát lên vẻ công phu trong khi tượng đất có vẻ… nặn ẩu? Về lý thì quả đúng vậy: nặn đất ta tha hồ thêm bớt, chỉnh sửa trong khi tạc đá không có cơ hội sửa sai nếu ta đục nhầm – dù chỉ một nhát! Khá nhiều nhà nghiên cứu đã băn khoăn về vấn đề này. Hóa ra đó là vấn đề của lịch sử tiến hóa nhân loại: người nguyên thủy thoạt tiên đã phải trải qua THỜI KỲ ĐỒ ĐÁ dài hàng vạn năm. Họ chỉ có công cụ bằng đá để tồn tại mà mãi sau này họ mới biết dùng lửa. Kể từ khi có lửa, người ta mới có thể làm bếp, ăn chín, nặn và nung đồ gốm rồi dần dần tiến tới nấu đồng để đúc… Hiện vật trưng bày tại Bảo tàng Đền Hùng, Phú Thọ, ảnh Đức Hòa. Vậy là dù đá rất cứng, nếu đục hỏng thì miễn sửa, chỉ có vứt đi… thế nhưng sau hàng vạn năm của thời kỳ ĐỒ ĐÁ, người nguyên thủy lại đã quen xử lý đá đến mức đủ công phu và tinh tế. Ngược lại, dù đất rất dễ nặn nhưng con người mãi sau mới biết dùng lửa để nấu ăn, sưởi và nung gốm… Họ chưa thể nặn tượng đẹp ngay lập tức sau khi có lửa. Vậy là dù nặn đất rất dễ nhưng vẫn cần thời gian đủ dài để mầy mò làm quen và tập dượt. Chỉ có như thế mới cắt nghĩa được vì sao “Người đàn ông Văn Điển” và “trang sức đầu trâu” lại có vẻ chỉnh chu hơn vô số tượng đất dù cùng tuổi và tương đương thời. 4. Nghĩ về hiệu quả thẩm mỹ qua 2 tượng đá sơ khai nhất của người Việt cổ Khá khó tin nhưng đó vẫn là sự thật: ngay từ thuở sơ khai của dân tộc, nghệ nhân Việt cổ vô danh đã chế tác điêu khắc đá với những hiệu quả đáng nể. Thứ nhất: đó là kết cấu cân đối tới mức gần như đối xứng – cặp sừng trâu, mặt người đàn ông… Thứ hai: đó là những chi tiết điểm nhấn đúng chỗ và hiệu quả đầy hứng thú – đôi mắt người như chấm tròn lõm vào đá, mắt trâu cũng chính là lỗ xỏ khuyên tai, độ cong đều của cặp sừng trâu, điểm nhấn của sinh thực khí nam, gờ ụ lông mày, gò má cân đối và hài hòa trên khuôn mặt, chỏm tóc bật lên trên đỉnh đầu, cân xứng và gợi cảm… Theo thiển ý của tôi: tượng “Người đàn ông Văn Điển” xứng đáng là điểm khởi đầu xuất sắc của lịch sử điêu khắc Việt Nam. Các tượng đất nung dù đa phần vụng về hết cỡ, lại vỡ vụn… nhưng vẫn có một điểm sáng, nói theo cách nhà nghề của họa sĩ là đã “bắt dáng” được con gà: thiếu sót tất cả các chi tiết nhưng tạo dáng gà mái không lẫn đi đâu được! Theo nghệ thuật hiện thực và ấn tượng, chỉ cần “bắt dáng” tốt là đã thắng lợi đến non nửa! Họa sĩ Đức Hòa Original 1, 2, 3. Nguồn: Lược sử Tộc Việt Ths Nguyễn Thy Ngà 1. Những bức tranh hang động cổ xưa nhất của người Việt Trước khi biết dựng lều và xây nhà thì người nguyên thủy từng “đành phải” sống trong hang động (bởi không còn cách nào khác khả dĩ hơn để ngủ qua đêm an toàn). Giống như mọi đứa trẻ từng trải qua giai đoạn vô tư vẽ những nét nguệch ngoạc lên tường, thuở xưa người nguyên thủy cũng thích vẽ lên vách hang. Trên thế giới có những hang động nổi tiếng bởi lưu giữ những bức tranh “thoạt kỳ thủy” ấy như Altamira (Tây Ban Nha) hay Lascaux (Pháp). Việt Nam ta cũng có mấy bức loại này nhưng không phải là tranh vẽ mà toàn là những nét đục lõm vào vách đá. Về niên đại và nguyên do đục tranh, các nhà nghiên cứu vẫn còn đang tranh cãi… Chúng tôi chỉ xin lướt qua những căn cứ khoa học để tập trung luận bàn về nội dung và nghệ thuật của loại tranh cổ xưa nhất này của người Việt. 1 – Chỉ có mấy bức trong 2 hang mà đều do một bà Tây phát hiện từ thời Pháp thuộc Nữ tiến sĩ Madeleine Colani là nhà khoa học có công lao lớn đối với ngành khảo cổ và lịch sử khởi nguyên của Việt Nam. Từ đầu thế kỷ XX bà đã lặn lội hầu khắp miền Trung và Bắc Đông Dương (Việt Nam và Lào ngày nay) để khám phá ra nhiều di chỉ khảo cổ đặc biệt quan trọng. Đáng chú ý trong số đó có những bức tranh khắc tối cổ trên vách đá ở 2 hang Đồng Nội (Hòa Bình) và Thượng Phú (Quảng Bình) đều do bà phát hiện ra khoảng những năm 1929-1930. Bà và các nhà khoa học thuộc Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (École francaise d’Extrême-Orient, viết tắt là EFEO) xếp các hình khắc này vào Văn hóa khảo cổ Hòa Bình với niên đại khoảng 1 vạn năm trước. Rất đáng nể bà Colani khi ở đầu thế kỷ XX, phần lớn nước ta chưa có đường sá giao thông hiện đại, chỉ có các lối mòn trong khi các hang động kể trên còn nằm sâu trong rừng già bạt ngàn. Sau này, người ta còn tìm ra nhiều hình khắc cổ khác nữa trên đá lộ thiên (chứ không phải trong hang) ở các tỉnh Lào Cai và Hà Giang nhưng một số nhà khảo cổ cho rằng chúng có niên đại muộn hơn, chỉ trước đây 4-5 thế kỷ, khi người H’Mong-Dao di cư xuống miền Bắc nước ta. Ngoài ra người ta còn tìm được một số hình chạm và nét vẽ cổ màu đỏ trên vách đá ở Ninh Bình với hình tượng Phật – như vậy chắc chắn có niên đại muộn, sau Công nguyên chứ không phải thời nguyên thủy. 2 – Tranh hang động của người Việt cổ “vẽ” cái gì? Nếu gọi là “bức tranh” thì không hẳn đúng vì đó không phải là hình vẽ mà là các nét chạm lõm vào vách đá, không có vết tô màu. Các hình khắc ở hang Đồng Nội thì không thành một bức tranh mà chỉ là các hình mặt người hay thú riêng rẽ nhưng hình tượng rất rõ, ai cũng có thể thấy và có thể đoán ra nên được chú ý nhiều hơn. Ngược lại, các nét khắc lõm ở hang Thượng Phú thì rất khó đoán nên ít được quan tâm nhưng lại có sắp xếp tổng thể gần với kiểu bức tranh hơn. Trái: Hình khắc trên vách măng đá hang Đồng Nội (Lạc Thủy, Hòa Bình), ảnh thời Pháp thuộc của bà Colani hoặc cộng sự (1929-1930); Phải: Bản vẽ giải thích “nhũ đá” (phía trên) và “măng đá” (phía dưới). Măng đá hang Đồng Nội rất to chứng tỏ niên đại hình thành từ rất xa xưa. Hình khắc trên vách măng đá hang Đồng Nội (Lạc Thủy, Hòa Bình). Bản đúc lại bằng thạch cao, tô màu giả rêu đá, trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Bản vẽ tổng hợp 4 hình chạm khắc trên vách măng đá hang Đồng Nội (Lạc Thủy, Hòa Bình).Hang Đồng Nội có tất cả 4 hình, trong đó có 1 hình nửa mặt người, 2 hình mặt người đầy đủ mắt-mũi-mồm, đường viền chu vi mặt, nhìn theo hướng chính diện, mọc thẳng trên đỉnh đầu là nét đục lõm hình chữ Y… Có người vui tính đoán là hình “ăng ten râu” kiểu người ngoài trái đất, có người đoán là kiểu sừng thú… Bà Colani (1927) và các nhà khảo cổ Przyluski (1932), Karlgren (1942) cho rằng đó là các hình “người-hươu” thể hiện đạo shaman nguyên thủy của người cổ thời văn hóa Hòa Bình. Chúng tôi ngả theo hướng một số nhà nghiên cứu cho rằng đây là nét biểu hiện hình đôi lông trĩ hay lông công mà các thủ lĩnh bộ tộc ngày xưa đội trên đầu. Rất có thể các bộ tộc ấy thờ vật tổ (totem) là chim. Chúng ta có thể thấy các hình ảnh tương tự trên đầu Bạch Cốt Tinh trong truyện Tây Du Ký hay gần với sự thật hơn nữa là những hình chụp thủ lĩnh da đỏ Bắc Mỹ. Mặt khác, ta có thể thấy trên mặt các trống đồng Đông Sơn có những hình người Việt cổ luôn đội lông chim trên đầu – nhiều bộ tộc Việt cổ từng thờ vật tổ là chim mà một số tài liệu nghiên cứu gọi là “chim Lạc”. Hình thứ tư trong hang Đồng Nội là hình kiểu mặt thú: râu dê, mắt mở tròn xoe, mũi kiểu lợn với 2 lỗ mũi hướng thẳng về phía trước, phía trên rất giống đôi lông mày đậm nét nhưng có người bảo có thể đó là cặp sừng cong. Có một hiệu quả tạo hình đáng chú ý: trong khi 2 mặt người rưỡi trông vô cảm thì mặt con thú này lại sinh động – nó luôn có vẻ hân hoan, mắt tròn xoe kinh ngạc, miệng cười ngoác…Hang Thượng Phú có 2 cụm hình khắc nét lõm mà nếu căn cứ vào cách sắp xếp bố cục kiểu mỹ thuật thì ta có thể coi đó là 2 “bức tranh”. Chính người viết bài này, cách đây một số năm đã giải mã được 1 trong 2 bức: đó là cảnh chó săn hươu – một phương thức đi săn của người Việt cổ. Phía trên cùng là một hình con hươu đang chạy từ phải sang trái. Bên dưới, góc phải ló lên 2 đầu chó săn với đôi tai dựng đứng điển hình kiểu chó. Không thấy cả thân và chân 2 con chó này, có lẽ “dụng ý tác giả” cho chúng náu mình trong cỏ cây? Nhưng quyết liệt nhất, ở giữa tranh, là một con chó đang phi sát bên cạnh chân hươu – hướng chạy cùng chiều, chúc xuống tạo cảm giác nó đang mở hết tốc lực – bức chạm vì vậy truyền cảm được hơi thở của cuộc sống dù chỉ toàn những nét lõm chưa hoàn hảo. Thuở mới được tạc, trong ánh lửa bập bùng soi, chắc bức chạm còn sinh động hơn nhiều trong mắt các thành viên của bộ lạc nguyên thủy. Bức chạm thứ 2 của hang Thượng Phú cho đến nay vẫn chưa ai giải mã được, nó gồm toàn những đường nét trừu tượng và bí ẩn nhưng chắc chắn do con người tạo ra chứ không phải ngẫu nhiên của thiên nhiên. Trái: Hình khắc trên vách hang Thượng Phú (Quảng Bình), cao khoảng 55cm; phải: bản vẽ giải trình nội dung tranh (của họa sĩ Đức Hòa) Trái: Hình khắc thứ 2 trên vách hang Thượng Phú (Quảng Bình), cao khoảng 55cm, bản đúc lại, bày trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam (Bác Cổ, Hà Nội); phải: Bản vẽ giải trình các nét khắc chính của tranh này (hiện chưa giải mã được nội dung).3 – Dùng chó săn hươu – phương thức đi săn cổ truyền của người Việt cổ Có khá nhiều bằng chứng cho nhận định trên: những hình trang trí đúc trên rìu đồng Đông Sơn. Hiện có nhiều rìu đồng Đông Sơn trong các bảo tàng và các sưu tập tư nhân. Một số đáng kể rìu đồng được trang trí theo công thức: diềm hoa văn kỷ hà (hình học) bao quanh theo hướng chạy song song với các cạnh của lưỡi rìu; ở giữa là một con chó đang dũng cảm chặn 2 con hươu lại. Sát bên trên có hình 2 người – thợ săn thời Đông Sơn đang reo hò trên chiếc thuyền độc mộc để gây áp lực dồn đuổi hươu. Cảnh tượng thật là sinh động dù các đường nét buộc phải cô đọng: không có chỗ để vẽ vời miêu tả dài dòng. Căn cứ vào rất nhiều hình “chó săn hươu” trên rìu đồng cổ, chúng tin rằng đây là phương thức săn thú cổ truyền của tổ tiên ta. Tuy nhiên có giả thuyết đưa ra lật lại vấn đề: chắc gì bức chạm cảnh săn hươu trên vách đá đã là tối cổ? Nếu nó được chạm chỉ cách đây mấy thế kỷ thì sao? Bởi vẫn còn đó, ngay tại miền Tây tỉnh Quảng Bình có nhóm người Rục chỉ mới được bộ đội tìm thấy năm 1959, hướng dẫn họ rời khỏi hang đá, lập làng, dựng nhà, làm nương, trồng lúa… Nhưng họ vẫn ưa thích sống trong hang hơn nên cứ đến mùa rẫy họ lại rời làng vào hang ở gần rẫy. Trước 1959 họ chỉ quen săn bắt – hái lượm. Và biết đâu chính họ từng khắc cảnh đi săn trên vách hang Thượng Phú chỉ vài thế kỷ trước? Chưa ai dám khẳng định hay bác bỏ giả thuyết này (xin luận bàn sâu hơn về kiểu săn này ở bài sau – về các hình trang trí trên rìu đồng cổ). Chỉ xin lưu ý: theo các nhà nghiên cứu, người Rục nói một thứ tiếng Việt rất cổ, dân tộc này đã tách ra khỏi nhóm Việt-Mường từ khoảng giữa thời Bắc thuộc. 4 – Kỹ thuật chạm chìm của các tranh vách hang cổ nhất Việt Nam Các nét lõm trên vách hang Thượng Phú có độ sâu khoảng 0,3 đến 0,5cm trong khi ở hang Đồng Nội thì sâu hơn, có mấy chỗ sâu tới 1,5cm, thậm chí 2cm. Nét đục trên vách măng đá hang Đồng Nội rộng hơn nét trên vách hang Thượng Phú. Như vậy đã có 2 kỹ thuật đục nét lõm khác nhau. Có người đặt câu hỏi: vậy người xưa lấy gì để đục nét vào vách đá? Dùng đá cứng (thời đồ đá chỉ có dụng cụ bằng đá mà thôi) miết lõm dần lên vách hang mềm hơn? Cũng có thể nhưng rất lâu đấy. Tiến sĩ Nguyễn Việt lại cho rằng người xưa đã dùng đục kim loại để tạc nên nét sâu hơn, đôi chỗ rộng bản hơn. Vách măng đá là đá vôi non nên cũng khá mềm, dễ đục. Cũng theo ông thì hình chạm hang Đồng Nội chỉ khoảng thế kỷ II trCN, do tàn quân Âu Lạc tạo ra khi làm lễ cầu cúng trên đường chạy vào Thanh Hóa qua ngả Hòa Bình sau khi nước Âu Lạc bị Triệu Đà diệt. 5 – Số phận của các bức chạm Hiện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đang trưng bày những tiêu bản một cách rất khoa học: không thể dỡ vách hang đá thì họ đúc lại bằng thạch cao, tô sơn giả màu đá và rêu, có chú dẫn cẩn thận. Dù niên đại của các bức tranh hang động Việt Nam còn đang tranh cãi thì đây vẫn là những trang tiền sử thú vị của mỹ thuật dân tộc. Tuy nhiên lại có câu chuyện buồn: một cán bộ già (nay đã từ trần) xưa từng làm nhân viên của Viễn Đông Bác Cổ thời Pháp thuộc rồi Viện Mỹ thuật thời chế độ ta, cách đây mấy chục năm từng kể cho người viết bài này về chuyến đi điền dã sau năm 1975 để tìm lại hang Đồng Nội. Cụ và các đồng sự đã tới được hang nhưng không còn vết tích nào cổ cả: hang đã được dọn sạch hết mọi nhũ đá và măng đá bởi thời chiến tranh chống Mỹ trước đó, nơi đây được chọn làm kho đạn – nhiệm vụ chiến đấu là ưu tiên số một thời ấy – mà cũng chẳng ai quan tâm đến những vết tích cổ của tổ tiên… Ôi buồn quá, chỉ biết trách chiến tranh!2. Cảnh chó đón hươu trên các rìu đồng Đông Sơn Tiếp nối bài trước “Những bức tranh hang động cổ xưa nhất của người Việt”, xin mời các bạn xem cảnh CHÓ ĐÓN HƯƠU trên các rìu đồng thời Đông Sơn. Tranh hang động và rìu đồng Việt cổ có liên quan vì cùng tả cảnh dùng chó săn hươu. Tất nhiên rất nhiều dân tộc trên thế giới đã dùng chó săn nhưng vấn đề ở đây là người Việt cổ đã chọn cảnh tượng này để vẽ ít nhất một lần trên vách hang rồi sau đó đã lặp lại nhiều lần trên các rìu đồng cổ. Rìu là công cụ rất phổ biến của người Đông Sơn. Tạo dáng rìu đồng cổ cũng phong phú và hiện còn rất nhiều tiêu bản tại các bảo tàng và sưu tập tư nhân. Cũng như các dân tộc sơ khai khác, người Việt cổ rất thích làm đẹp cho các đồ vật quý của mình: tạo dáng, mài nhẵn, đánh bóng, trang trí và thậm chí còn “vẽ” được cả quang cảnh của một buổi đi săn sôi động trên lưỡi rìu đồng. Cảnh săn hươu của người Việt cổ, hình đúc trên rìu đồng Đông Sơn. Chó săn chặn đầu hươu, phía trên (ước lệ là đằng xa) 2 thợ săn đang reo hò trên thuyền để gây áp lực. Trái: lưỡi rìu xéo gót vuông, mạ vàng do C.Huet sưu tầm tại Quốc Oai, Hà Tây hiện bày tại Bảo tàng Nghệ thuật Brussel, Bỉ. Phải: lưỡi rìu hình chiếc hia, 12 x 11 cm, Bảo tàng nhân học (Volkerkund Museum), Thủ đô Viên, Cộng hòa Áo.Kể từ đây, tôi muốn hướng các bạn yêu mỹ thuật vào Những bức tranh trang trí trên đồ đồng của người Việt cổ. Sau 2000 năm, các cổ vật thời Đông Sơn có lẽ đã mất mát phần lớn! Thế mà các bức tranh ở dạng trang trí trên đồ đồng vẫn còn phong phú lắm, súc tích lắm. Sở dĩ tôi đang cố gắng làm điều này vì trước đây, khi còn dạy môn Lịch sử Mỹ thuật, đã có phụ huynh – cũng là đồng nghiệp – muốn tôi dẫn đến Bảo tàng Lịch sử để chỉ tận chỗ cái hiện vật có thể là dẫn chứng điển hình cho trang phục dân tộc thời Đông Sơn. Từ đó họ mới nhận ra rằng đồ đồng Việt cổ để lại cho chúng ta ngày nay khá nhiều thông tin về xã hội, văn hóa, kỹ thuật, trang phục, nghi lễ… của tổ tiên. Những lưỡi rìu có tạo dáng kỳ lạ thời Đông Sơn. 1 – Tạo dáng rìu Đông Sơn rất phong phú, đôi khi có vẻ… kiểu cách. Ở buổi đầu sơ khởi của dân tộc, rìu chiến là vũ khí quan trọng nên được sản xuất hàng loạt. Bằng chứng là ngày nay, sau hơn 2000 năm, dù bị mất mát và hủy hoại vô cùng nhiều mà vẫn còn vô số tiêu bản trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân. Từ rìu đá cho đến rìu đồng, khởi đầu chỉ là công cụ hay vũ khí nhưng càng về sau càng được chăm chút như một tác phẩm nghệ thuật – nó là niềm tự hào và vẻ đẹp của các chiến binh. Thậm chí về sau nữa, có những chiếc rìu dường như chỉ dùng vào việc cúng tế – không có tính thực dụng vì rất khó chặt, chém mà tạo dáng lại quá kiểu cách, có rìu còn đúc thêm hình con chim nhỏ xíu đang đậu nữa – thật là điệu đà hết sức! Phải: Lưỡi rìu đồng Đông Sơn (có một phần cán gỗ) trong sưu tập của Đoàn Anh Tuấn. Chiều ngang hơn 12cm, bản rộng 6,5cm. Trái: Trích đoạn cảnh đi săn, chó chặn đầu 2 con hươu, phía xa 2 thợ săn đang hò reo trên thuyền độc mộc. Trái: Lưỡi rìu đồng Đông Sơn trong sưu tập của Đoàn Anh Tuấn. Chiều ngang hơn 10cm, chiều cao của lưỡi rìu 6,5cm. Phải: Trích đoạn cảnh đi săn, chó chặn đầu 2 con hươu, phía xa 2 thợ săn đang hò reo trên thuyền độc mộc.2- Những lưỡi rìu hình chiếc hia có gót vuông được trang trí đặc biệt Thời Đông Sơn người ta từng đúc nhiều kiểu lưỡi rìu, từ nhỏ xíu để làm đồ minh khí – tùy táng cho đến to nhất tương đương một bàn tay. Đẳng cấp nhất là loại rìu hình như chiếc hia có gót gần như vuông, thường to cỡ nửa bàn tay. Trong số đó có những chiếc được đặc biệt trang trí bằng những nét đúc trên bề mặt. Phổ biến là cảnh dùng chó săn hươu với các diềm trang trí bao quanh 3 mặt, khớp theo các cạnh của lưỡi rìu. Đó là các đường diềm trang trí hình ô trám nối tiếp mà dân chơi đồ cổ gọi là hoa văn “trám lồng” – chúng được tạo thành do các đường zic zăc đối lập và đan xen, tạo thành hình hình học dạng con thoi nối tiếp nhau. Vẻ đẹp kiểu hoàn toàn trừu tượng này bao quanh bức tranh mà các nghệ nhân cổ muốn kể lại một cách hiện thực nhất có thể, vào thời cổ đại cách đây hơn 2.000 năm. Rìu đồng Đông Sơn trong Bảo tàng Lịch sử Quốc gia có đúc cảnh chó chặn đầu hươu trong khi 2 thợ săn đang hò reo trên thuyền độc mộc bên trên. Cảnh săn hươu trên rìu Đông Sơn nhưng không hiểu tại sao con chó này lại chạy cùng chiều với hươu (?) Phía trên (tả lớp cảnh phía xa) là 2 thợ săn đang reo hò trên thuyền độc mộc.3- Dùng chó săn hươu – bức tranh hiện thực sơ khai nhất, được “tái bản” vô số lần. Bạn hãy tưởng tượng lại quang cảnh điển hình của đồng bằng châu thổ sông Hồng và sông Mã cách đây hơn 2000 năm – tức là vào thời Đông Sơn. Đang kỳ biển thoái, mực nước biển hạ dần, đồng bằng trẻ nổi lên, vô số sông, ngòi, rạch, lạch nước bao quanh các bãi đất xâm xấp, mọc đầy lau sậy, sú, vẹt… Hươu đi ăn từng đàn – tất nhiên đó là mồi ngon cho các thú ăn thịt. Nhưng trong khi cá sấu, hổ, báo dư sức phục kích hay truy đuổi con mồi thì loài người yếu ớt khó lòng theo kịp, đành phải viện đến mưu mẹo. Minh họa giải trình cảnh chó săn chặn đầu đàn hươu trong khi phía xa 3 thợ săn đang ngồi gõ que tre và hò reo trên thuyền độc mộc.Người dùng thuyền độc mộc với các tay chèo cơ bắp cuồn cuộn để bao vây, tiếp cận bãi nổi có đàn hươu. Càng nhiều thuyền càng dễ bao vây. Nhưng hươu bao giờ cũng có khả năng tẩu thoát xuất sắc: chúng chạy cực nhanh và bơi vượt qua sông ngòi ngon lành. Đúng lúc ấy loài người tìm thấy đồng minh trong nghề đi săn: con chó. Ưu điểm của chó thì sách báo đã phân tích nhiều, xin miễn nói thêm. Ở đây chỉ xin nhấn mạnh: chó săn đã được tổ tiên ta sử dụng xuất sắc vào điểm yếu nhất của con người trong cuộc săn: chặn đầu. Các thợ săn Đông Sơn phán đoán hướng tẩu thoát của đàn hươu, thả chó đúng điểm cần thiết. Các thuyền độc mộc bao vây, thợ săn hô hoán làm áp lực dồn đuổi, chỉ chừa ra một hướng đã có đàn chó đón lõng. Thừa dịp đàn hươu đang ngỡ ngàng vì bị chặn đứng, các thuyền săn đủ thời gian tiếp cận, mũi lao và cung nỏ đủ tầm phát huy tác dụng – vậy là người Việt cổ chiếm được nguồn thức ăn giàu dinh dưỡng nhất! Minh họa giải trình cảnh chó săn chặn đầu đàn hươu trong khi phía xa 2 thợ săn đang đứng hò reo trên thuyền.4 – Vậy tại sao người ta đúc cảnh đi săn nhiều đến thế trên các rìu chiến cổ? Đây là tín ngưỡng sơ khởi với ý làm thiêng hóa sự cầu may. Những bức tranh hang động trên khắp thế giới, từ Âu sang Á tới Phi rồi Úc thường nhất loạt vẽ các thú lớn – nguồn protein trọng yếu của con người. Các nhà nghiên cứu hiện đại đã tìm ra lý do: không phải vẽ vì cái đẹp mà nhằm mục đích phù phép – khẩn cầu để bắt cho được các thú lớn đó. Người ta từng chứng kiến một số bộ lạc lạc hậu hồi đầu thế kỷ XX vẫn còn vẽ thú lớn lên vách đá hay trên mặt đất để phù thủy của bộ lạc phù phép – bắt mất hồn của con vật, trong khi các thợ săn nhảy múa, hú hét, dứ dứ vũ khí trên hình con vật. Chỉ sau đó họ mới yên tâm đi săn. Các rìu chiến được đúc cảnh dùng chó săn thú cũng không ngoài mục đích kể trên! Trước khi đi săn, thổ dân Úc dùng biện pháp ma thuật: vẽ hình con vật định săn xuống đất rồi nhảy múa, hú hét và phóng lao vào hình vẽ. Họ tin rằng làm như vậy sẽ khiến con vật tổn thương và bị họ bắt mất “hồn”… do vậy mà cuộc đi săn sau đó sẽ thuận lợi hơn nhiều. Nguồn: sách Iscustvennaya Istoria Mira – Lịch sử nghệ thuật thế giới (tiếng Nga).5 – Chuyện kể của bà tôi: cuộc săn của cả làng đầu năm 1947. Vào thời điểm dân phố thủ đô tản cư về các miền quê quanh Hà Nội. Bà tôi dắt díu gia đình lên “mạn ngược” và đầu năm 1947 tới tỉnh Tuyên Quang. Bất ngờ một ngày nọ, cả nhà bị dân một làng mừng rỡ bắt buộc (vì họ thiếu người) phải tham gia bao vây một khu rừng. Mỗi người được phát 2 que tre to – phải vừa hò hét vừa đập que tre vào nhau trong khi vòng vây của cả làng khép dần quanh khu rừng. Chó làng sủa ran hòa lẫn tiếng cồng chiêng, tiếng đập tre nứa và tiếng hú hét uy hiếp con thú. Rừng giáp một bên sông, phía ấy đã có các thuyền và thợ săn quây chặt. Cuối cùng con thú chạy qua lối thoát duy nhất mà người ta cố tình chừa ra để nó phải sập bẫy. Xong việc, bà định đi tiếp nhưng lệ làng bắt buộc phải ở lại cho đến khi thịt xong con thú. Kết quả chia đều: mỗi người tham gia, bất kể già-trẻ-lớn-bé được một miếng thịt to bằng ngón chân cái! Kể chuyện này để thấy cách phối hợp của người Việt cổ vẫn tồn tại dai dẳng đến tận nửa đầu thế kỷ XX. 6 – Những bức tranh hiện thực mà tổ tiên để lại cho con cháu ngàn sau… Có người chê “bức tranh” gì mà bé tí? lại chỉ có mấy nét đơn sơ? Riêng tôi ngậm ngùi xúc động: vâng, so với ngày nay thì nói làm gì – người ta có thể đúc ra những bức tranh nét nổi tinh vi và phức tạp để tả lại câu chuyện hay hơn thế hàng triệu lần! Trích đoạn một rìu đồng Đông Sơn có cảnh chó chặn đầu hươu trong khi 3 thợ săn đang ngồi gõ que tre trên thuyền độc mộc bên trên.Nhưng các rìu chiến đúc hình “chó đón hươu” ấy là thành quả kỹ thuật đặc biệt nhất của tổ tiên ta thuở sơ khai, cách đây khoảng từ 2700 năm đến 2000 năm, vào thời các nghệ nhân đang mầy mò đúc đồng để trang bị cho các chiến binh Việt cổ những chiếc rìu cận chiến sắc bén nhất, đẹp đẽ nhất, thiêng hóa nhất (và chưa biết chừng đã được phù thủy bộ lạc phù phép) để săn thú sao cho hiệu quả nhất. Chuyện dông dài, bao la được rút gọn lại trong mấy nét cô đọng như dạng tín hiệu mà ý tứ vẫn rõ ràng, lại được bao quanh bởi 3 diềm trang trí rất đẹp như làm khung để tôn vinh bức tranh săn hươu vất vả mà đầy hiệu quả. Đó chính là câu chuyện nghệ thuật của tổ tiên ta! Và thật tự hào cho nhà sưu tập nào có trong tay một chiếc rìu như vậy…3. Những bức tượng sơ khai nhất của người Việt cổ Ngay ở buổi bình minh của dân tộc, các tiền bối của người Việt cổ đã quen “nghịch đất” và thử “nặn tượng”. Bằng chứng là qua các cuộc khai quật khảo cổ ở thời hiện đại, thế hệ con cháu mấy trăm đời sau còn tìm thấy một số “bán thành phẩm” điêu khắc của tổ tiên – hầu hết đều… chưa nặn thành hình. Bên cạnh đó còn có tượng đá, số lượng rất ít nhưng đáng chú ý ở chỗ rất rõ hình tượng và được coi gần như đã làm xong. Ở đây tôi chỉ xin bàn đến các tượng đá và đất nung – còn tượng đồng thì muộn hơn và công nghệ cũng đã cao hơn (vì phải nặn mẫu xong làm khuôn rồi mới tới công đoạn nấu đồng và đúc rót…). Ngày nay chúng ta đã có cả một “nền Điêu khắc Việt Nam” với nhiều thành tựu, thiết tưởng cũng nên nhìn lại để đánh giá bước khởi đầu chập chững vào nghề của tổ tiên chứ nhỉ? 1. Những tượng đất nung bé xíu và như đang nặn dở Các nhà khảo cổ đào được khá nhiều mảnh vụn… nghi vấn là tượng đất nung trong các cuộc khai quật những di chỉ thuộc các Văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun (chỉ riêng tại di chỉ Thành Dền đã đào được tới 114 tiêu bản). Căn cứ vào những gì đã chính thức công bố thì chỉ có tượng động vật – mà nhiều khả năng đó là các vật nuôi như trâu, bò, lợn, gà, vịt… Chưa hề tìm thấy tượng người hay các “đề tài khác” bằng đất nung. Đó là những tượng rất nhỏ, kích thước chỉ vài cm, đều ở mức độ chưa hoàn thiện khiến đời sau phải đoán xem đó là con gì. Chỉ rất ít tượng còn nguyên, phần nhiều vỡ vụn, gãy các chi tiết. TƯỢNG GÀ, đất nung, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500- 1000 trCN), hiện vật Bảo tàng Lịch sử Quốc gia (Bác Cổ, Hà Nội), ảnh Nguyễn Hoài Nam“Nổi tiếng” nhất trong số này – vì được bày trong Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (Bác Cổ – Hà Nội) là mấy tượng gà, bò (hoặc trâu), thuộc Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu. Tạo dáng gà khá rõ: đầu, cổ, thân và đuôi. Thậm chí tư thế con gà vươn cổ, vểnh đuôi một cách điển hình kiểu gà chứng tỏ người nặn đã quan sát gà rất kỹ, bắt dáng được con gà. Tuy nhiên tượng gà vẫn như chưa xong vì thiếu chân, mào, mỏ – rất có thể đã được nặn rồi lại gẫy vì bị vùi trong lòng đất mấy ngàn năm… Tuy nhiên khả năng nặn chưa xong thì hợp lý hơn, căn cứ vào vết tích còn lại và cũng căn cứ vào trình độ hết sức sơ khai của người Đồng Đậu khi đó. Còn tượng bò thì tùy: có tài liệu bảo đó là trâu – bởi tạo dáng còn đang dang dở, chưa rõ những đặc điểm cốt yếu để khẳng định là một trong 2 con vật này như kiểu sừng, u bò, yếm bò (mà trâu không có)… TƯỢNG LỢN và BÒ (đoán định), đất nung, dài 2 – 5,5cm, dày 1 – 3cm, di chỉ Thành Dền, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500-1000 trCN). Nguồn ảnh: “Địa điểm khảo cổ học Thành Dền – những giá trị lịch sử – văn hóa nổi bật”, Lâm Thị Mỹ Dung chủ biên, NXB ĐHQG HN 2015 TƯỢNG LỢN và BÒ (đoán định), đất nung, dài 2 – 5,5cm, dày 1 – 3cm, di chỉ Thành Dền, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500-1000 trCN). Nguồn ảnh: “Địa điểm khảo cổ học Thành Dền – những giá trị lịch sử – văn hóa nổi bật”, Lâm Thị Mỹ Dung chủ biên, NXB ĐHQG HN 2015Dù sao các tượng bò và gà kể trên cũng đã là loại “khá” lắm bởi đa số các tượng đất nung còn lại sau các cuộc khai quật đều “kém hơn nữa” về tạo hình. Nếu chúng ta có ý định “chiêm ngưỡng tác phẩm điêu khắc” thì nhiều khả năng sẽ đành nản lòng! Tuy vậy, các tượng này chí ít vẫn để lại cho chúng ta một vài thông tin hữu ích. Thứ nhất: cỡ tượng rất nhỏ, chỉ vài phân (cm). Thứ hai: được làm nhân thể khi người ta làm gốm, tranh thủ nặn chơi chút cho vui rồi đem nung kèm. Có một số phán đoán: nặn chơi, nặn để làm kiểu tượng bùa, nặn làm đồ chơi cho trẻ con… mà cũng có thể chính trẻ con mới là “tác giả” – nặn để chơi. Một số mảnh tượng đất nung Văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên. Nguồn ảnh: sách “Đồ gốm Văn hóa Phùng Nguyên”, Bùi Thị Thu Phương, NXB Chinh trị QG 2015 Tưọng đầu bò, đất nung, di chỉ Tiên Hội, Đông Anh, Hà Nội, Văn hóa khảo cổ Đồng Đậu (khoảng 1500-1000 trCN). Nguồn ảnh: sách “Hà Nội thời Hùng Vương – Anh Dương Vương”, Trịnh Sinh, NXB Hà Nội 2010 Hiện vật của Bảo tàng Đền Hùng, đất nung, ảnh Đức Hòa Một số mảnh tượng đất nung – di vật Văn hóa khảo cổ Tiền Đông Sơn lưu vực sông Mã. Nguồn hình vẽ: từ sách “Cơ sở Khảo cổ học”, Hán Văn Khẩn chủ biên, NXB Đại học QG HN 2008Nhìn rộng ra trong lịch sử thế giới, các nền văn minh tối cổ cũng để lại khá nhiều tượng đất nung cỡ nhỏ và không hoàn thiện. Người nguyên thủy trên bước đường chập chững vươn lên thành các dân tộc, quốc gia sơ khai hóa ra rất thích vẽ, nặn, đục đẽo… để tái tạo hình người và động vật mà họ thấy quen thuộc. Đây là quá trình nhận thức thế giới bằng cách tái tạo hình của người nguyên thủy. 2. Tượng đá rất ít nhưng tạo hình rõ ý đồ hơn Đó là bức tượng được đặt tên: “Người đàn ông Văn Điển” vì khai quật từ di chỉ cùng tên. Dù rất bé, chỉ cao có… 3,6cm, sẽ lọt thỏm nếu ta cầm trong tay nhưng tượng đá này được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia (Bác Cổ – Hà Nội) và được in rất nhiều lần trên các sách báo Việt Nam. Nếu các tượng đất đều có vẻ… nặn ẩu thì ngược lại – tượng đá này cho thấy sự công phu, trau chuốt. Dáng người đứng thanh mảnh, rất eo, các chi tiết được nhấn rất rõ nét: 2 mắt khoét lõm thành 2 chấm sâu, tròn đều, gờ ụ lông mày và gờ gò má cân đối, trong khi gờ sống mũi hơi nhô lên theo chiều dọc chính giữa mặt. Dù chỉ nhỏ như… đầu tăm nhưng “sinh thực khí nam” nổi lên rõ rệt, đúng chỗ! Đáng ngạc nhiên hơn nữa khi trên đỉnh đầu có búi tóc từ chính giữa đỉnh vểnh lên với chủ ý tạo hình chính xác: vạt phẳng đều hai mặt bên theo chiều đứng và hơi lượn cong lên về phía sau. Có giả thiết cho rằng đó không phải là búi tóc mà là một vành tròn – nếu không bị gãy thì sẽ để buộc dây vào như đeo bùa. Nếu quả đúng vậy thì tay nghề của nghệ nhân tạc đá này đã rất cao từ cách đây có thể tới 4000 năm! Cũng chưa ai chứng minh được đó là một vành tròn nhưng sự khúc triết, mạch lạc của chỏm tóc khiến đời sau phải để ý và có phần băn khoăn: thời thô sơ đến vậy mà sao có thể chế tác kỹ thế? Tất nhiên tượng chưa hoàn hảo: không tay, cụt chân, lại vẫn còn mảnh xỉ đá chèn vào một bên hông mà tác giả chưa xử lý được, có thể vì non tay nghề hoặc thiếu dụng cụ đủ cứng để cắt gọt… Tượng NGƯỜI ĐÀN ÔNG VĂN ĐIỂN – khai quật tại di chỉ Văn Điển, cao 3,6cm, đá quarzit mài nhẵn. Văn hóa khảo cổ Phùng Nguyên, khoảng 2000-1000 trCN. Bảo tàng Lịch sử Quốc gia VN (Bác Cổ-Hà Nội). Ảnh Hiểu Trần. Bên trái là giả thiết về phần vòng đã gãy trên đỉnh đầu – có thể là móc để treo tượng bùa (bản vẽ của Đức Hòa). Khuyên tai hình đầu trâu, di chỉ Đình Tràng, Đông Anh, Hà Nội, cao 2,4cm, ngang 2,7cm, đá ngọc nephrite. Văn hóa khảo cổ Gò Mun, khoảng 1100-700 trCN, Bảo tàng Nhân học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, ảnh Đức Hòa Một… tượng đá khác, mà đúng ra chỉ là dạng khuyên tai – trang sức. Tuy nhiên cách tạo hình lại rất công phu và gợi cảm: khuyên tai hình đầu trâu với đôi sừng cong vểnh sang hai bên. Rất thú vị khi nghệ nhân ngàn xưa đục lỗ xỏ xuyên qua vị trí sống mũi trâu! Nhìn nghiêng ta sẽ thấy như mắt trâu đang mở… Ngày nay, với công nghệ hiện đại, người ta có thể chế tác trang sức phức tạp hơn nhiều nhưng thuở sơ khai nguyên thủy thì đây quả là kỳ công: tinh tế, sáng tạo, đối xứng, trau chuốt… trong tình thế chắc chắn chưa có công cụ đủ tinh vi.Về màu sắc và chất liệu thì 2 tượng đá kể trên còn tăng thêm phần hấp dẫn vì được tạc từ loại đá có chất lượng ngọc nên có phần hơi long lanh và màu xám phớt xanh gợi cảm. 3. Nặn đất dễ hơn tạc đá – vậy tại sao tượng đá toát lên vẻ công phu trong khi tượng đất có vẻ… nặn ẩu? Về lý thì quả đúng vậy: nặn đất ta tha hồ thêm bớt, chỉnh sửa trong khi tạc đá không có cơ hội sửa sai nếu ta đục nhầm – dù chỉ một nhát! Khá nhiều nhà nghiên cứu đã băn khoăn về vấn đề này. Hóa ra đó là vấn đề của lịch sử tiến hóa nhân loại: người nguyên thủy thoạt tiên đã phải trải qua THỜI KỲ ĐỒ ĐÁ dài hàng vạn năm. Họ chỉ có công cụ bằng đá để tồn tại mà mãi sau này họ mới biết dùng lửa. Kể từ khi có lửa, người ta mới có thể làm bếp, ăn chín, nặn và nung đồ gốm rồi dần dần tiến tới nấu đồng để đúc… Hiện vật trưng bày tại Bảo tàng Đền Hùng, Phú Thọ, ảnh Đức Hòa.Vậy là dù đá rất cứng, nếu đục hỏng thì miễn sửa, chỉ có vứt đi… thế nhưng sau hàng vạn năm của thời kỳ ĐỒ ĐÁ, người nguyên thủy lại đã quen xử lý đá đến mức đủ công phu và tinh tế. Ngược lại, dù đất rất dễ nặn nhưng con người mãi sau mới biết dùng lửa để nấu ăn, sưởi và nung gốm… Họ chưa thể nặn tượng đẹp ngay lập tức sau khi có lửa. Vậy là dù nặn đất rất dễ nhưng vẫn cần thời gian đủ dài để mầy mò làm quen và tập dượt. Chỉ có như thế mới cắt nghĩa được vì sao “Người đàn ông Văn Điển” và “trang sức đầu trâu” lại có vẻ chỉnh chu hơn vô số tượng đất dù cùng tuổi và tương đương thời. 4. Nghĩ về hiệu quả thẩm mỹ qua 2 tượng đá sơ khai nhất của người Việt cổ Khá khó tin nhưng đó vẫn là sự thật: ngay từ thuở sơ khai của dân tộc, nghệ nhân Việt cổ vô danh đã chế tác điêu khắc đá với những hiệu quả đáng nể. Thứ nhất: đó là kết cấu cân đối tới mức gần như đối xứng – cặp sừng trâu, mặt người đàn ông… Thứ hai: đó là những chi tiết điểm nhấn đúng chỗ và hiệu quả đầy hứng thú – đôi mắt người như chấm tròn lõm vào đá, mắt trâu cũng chính là lỗ xỏ khuyên tai, độ cong đều của cặp sừng trâu, điểm nhấn của sinh thực khí nam, gờ ụ lông mày, gò má cân đối và hài hòa trên khuôn mặt, chỏm tóc bật lên trên đỉnh đầu, cân xứng và gợi cảm… Theo thiển ý của tôi: tượng “Người đàn ông Văn Điển” xứng đáng là điểm khởi đầu xuất sắc của lịch sử điêu khắc Việt Nam. Các tượng đất nung dù đa phần vụng về hết cỡ, lại vỡ vụn… nhưng vẫn có một điểm sáng, nói theo cách nhà nghề của họa sĩ là đã “bắt dáng” được con gà: thiếu sót tất cả các chi tiết nhưng tạo dáng gà mái không lẫn đi đâu được! Theo nghệ thuật hiện thực và ấn tượng, chỉ cần “bắt dáng” tốt là đã thắng lợi đến non nửa! Họa sĩ Đức Hòa Original 1, 2, 3. Nguồn: Lược sử Tộc ViệtThs Nguyễn Thy Ngà Trở về đầu trang Mỹ thuật cổ đại người Việt 7 Tổng số:3 lượt 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10