Đình Tiền Huân thờ phụng Ngọc Tuynh công chúa triều đại Hùng Vương thứ 18 được kiến tạo từ năm 1674, đến năm 1854 thì chuyển về vị trí hiện nay. Đình đã được các đời vua từ Lê Hiển Tông đến Khải Định ban 12 sắc phong.
Xứ Đoài, vùng đất vốn nổi tiếng với những ngôi
đình cổ “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Thời nay, ở Xứ Đoài người
ta có thể kể ngay ra các ngôi đình nổi tiếng như: Đình So, đình Chu
Quyến, đình Tây Đằng, đình Mông Phụ, đình Phú Nhi… đặc biệt là ngôi
đình tiêu biểu cho kiến trúc cổ truyền Việt nằm ở Xứ Đoài, đó là
đình Tiền Huân.
Đình Tiền Huân thờ phụng Ngọc Tuynh công chúa triều đại
Hùng Vương thứ 18 được kiến tạo từ năm 1674, đến năm 1854 thì chuyển về vị trí
hiện nay. Đình đã được các đời vua từ Lê Hiển Tông đến Khải Định ban 12 sắc
phong.
Năm 2003 sở Văn hóa Hà Tây cấp bằng “Di tích lịch sử văn
hóa” cho ngôi đình và miếu thờ Thành hoàng làng là Ngọc Tuynh công chúa - con
gái thứ ba vua Hùng thứ mười tám.
Đình Tiền Huân được Giáo sư Nguyễn Bá Lăng giới thiệu
trong các kiến trúc tiêu biểu của tỉnh Sơn Tây xưa. Nguyễn Bá Lăng
(1920-2005) là một trong những người đầu tiên đặt nền móng cho việc nghiên cứu
kiến trúc cổ truyền Việt, ông vốn nổi tiếng nhờ những tác phẩm nghiên cứu
về kiến trúc cổ.
Đình tọa lạc giữa làng Tiền Huân. Nay là phố Tiền Huân nằm
trên địa bàn phường Viên Sơn thuộc thị xã Sơn Tây. Theo các cụ cao niên
kể lại, đình xưa có không gian rất lý tưởng cho những sinh hoạt cộng đồng.
Trước mặt và sau đình đều có khoảng đất rộng làm nơi tổ chức lễ hội, phía trước
là ao làng được viền đá vỉa rất đẹp.
Kiến trúc đình Tiền Huân được Giáo sư Nguyễn Bá Lăng
ghi lại: “Vách đố lụa, hai tầng mái cong với đường bờ gắn gạch hộp hoa chanh,
mái đao đắp diệp hoá long, đầu rồng thành ba nấc. Đầu đốc đắp hổ phù, hai bên
chân dốc và đầu bờ dốc mái dưới đắp con sấu”.
Đình Tiền Huân bị phá dỡ năm 1961, đến năm 2007-2008 mới
được dựng phục lại phần đại bái và hậu cung, mãi đến năm 2014 mới làm tiền tế
theo kiểu dáng trên nền cũ, năm 2018 mới nạo vét lại ao đình và lát gạch nền.
Theo thời gian, theo dòng lịch sử, đình Tiền Huân với kiến trúc xưa nay
không còn nữa, giờ đã được thay thế bằng ngôi đình mới trông rất
khang trang, với vật liệu chủ yếu là bê tông sơn giả gỗ, kiến trúc mới
này không có nhiều ý nghĩa về không gian văn hóa .
Nhưng thật đặc biệt, phía trước đình vẫn còn hai đôi
nghê cổ bằng đá rất đẹp và độc đáo, theo tôi đây là những hiện vật
rất quý còn giữ lại được của một ngôi đình đã từng là tiêu biểu ở
Xứ Đoài.
Nghê là hình ảnh rất
đỗi thân quen với người Việt, nhưng hiện nay lại ít người hiểu về nghê. Nghê là
con vật linh, là biểu tượng của trí tuệ, quyền uy, dũng mãnh, tôn nghiêm, linh
thiêng, trung thực và may mắn. Bản thân
chữ nghê 貎
trong tiếng Hán gồm bộ Khuyển犭 (chó) và chữ Nhi倪 (trẻ
con) hợp thành. Nghê đầu rồng biểu tượng cho sự chính trực. Nghê mình chó biểu
tượng cho sự trung thành. Nghê đầu rồng, đuôi rồng chầu mặt trời lại mang tính
dũng mãnh, uy nghiêm. Nghê đội giá sớ, nghê có xoắn ốc trên mình (giống xoắn ốc
trên đầu Phật) biểu tượng của lửa, sấm chớp, mặt trời, của chữ Vạn trong nhà Phật...
Trải qua nhiều thời kỳ, nghê cũng được người ta hình tượng
hóa, tâm linh hóa phong phú hơn, kết hợp với những bàn tay người thợ tài hoa
luôn sáng tạo, nên giờ chúng ta bắt gặp nghê trong nhiều hình thái khác nhau.
Người ta gặp những con nghê hồ hởi trên các cổng làng, cổng
xóm có khi cũng ở ngay trên cổng nhà, cổng chùa, trên lan can tay vịn các dinh
thự, cung điện. Nghê cung kính đứng nơi đền miếu và lăng tẩm đã bao đời nay. Có
loại nghê như những con chó cảnh, con sư tử nhỏ, lại có con nghê như những con
chó săn…
Hai đôi nghê ở trước đình Tiền Huân là những linh vật
tiêu biểu đại diện cho văn hóa Việt. Một đôi béo tốt miệng rộng chầu
vào trong đình, đó là biểu tượng những ước muốn của người dân. Một
đôi lanh lẹn, dũng mãnh quay ra phía ngoài đó là linh vật bảo vệ dân
làng.
Muốn hiểu sâu hơn về đôi nghê đá này, ta phải hiểu
được các quan niệm truyền thống của người xưa. Người xưa quan niệm
rồng đứng đầu trong tứ linh nên rồng có ảnh hưởng không nhỏ trong đời sống tâm
linh của người dân và liên quan mật thiết đến chính trị, kinh tế, văn học nghệ
thuật, phong tục dân gian.
Người xưa còn có quan niệm rồng sinh chín con (Long sinh
cửu tử), là chín loài thần thú nhưng không phải rồng. tùy vào tính cách của mỗi
con mà người ta dùng trang trí ở những nơi khác nhau như mái hiên, nóc nhà, lan
can, vũ khí, chiến thuyền... Theo sách "Hoài Lộc Đường Tập" của Lý
Đông Dương (1447-1516), tên của chín con của rồng lần lượt là: 1-Bá Hạ; 2-
Li Vẫn; 3- Bồ Lao; 4-Bệ Ngạn; 5-Thao Thiết; 6-Công Phúc; 7-Nhai Xải;
8-Toan Nghê; 9-Tiêu Đồ
Bá Hạ là con trưởng của rồng, còn có tên khác là Quy Phu,
Điền Hạ hay Bí Hí. Linh vật có hình dáng thân rùa, đầu rồng, có sức mạnh vượt
bậc, chịu được trọng lượng lớn nên thường được chạm khắc trang trí làm bệ đỡ
cho các bệ đá, cột đá, bia đá...
Li Vẫn là con thứ hai của rồng, còn có tên gọi là Si Vĩ hay
Si Vẫn. Linh vật có đầu rồng, miệng rộng, thân ngắn, thích ngắm cảnh và thường
giúp dân diệt hỏa hoạn nên được chạm khắc làm vật trang trí trên nóc các cung
điện cổ, chùa chiền, đền đài…
Bồ Lao là con thứ ba của rồng. Linh vật thích âm thanh lớn,
thường được đúc trên quai chuông với mong muốn chiếc chuông được đúc có âm
thanh như ý muốn.
Bệ Ngạn là con thứ tư của rồng, còn có tên gọi khác là Hiến
Chương. Linh vật có hình dáng giống hổ, răng nanh dài và sắc, có sức thị uy lớn,
thích lý lẽ và có tài cãi lý đòi sự công bằng khi có bất công, nhờ vậy bệ ngạn
thường được đặt ở cửa nhà ngục hay pháp đường, ngụ ý răn đe người phạm tội và
nhắc nhở mọi người nên sống lương thiện.
Thao Thiết là con thứ năm của rồng. Linh vật có đôi mắt to,
miệng rộng, dáng vẻ kỳ lạ, rất phàm ăn nên được đúc trên các đồ dùng trong ăn
uống.
Công Phúc là con thứ sáu của rồng. Linh vật này thích nước
nên được khắc làm vật trang trí ở các công trình hay phương tiện giao thông đường
thủy như: cầu, rãnh dẫn nước, đập nước, bến tàu, thuyền bè… với mong muốn công
phúc luôn tiếp xúc, cai quản, trông coi lượng nước phục vụ nhân dân.
Nhai Xải là con thứ bảy của rồng. Linh vật có tính khí hung
hăng, thường nổi cơn thịnh nộ và ham sát sinh nên thường được chạm khắc trên
các vũ khí như đao, búa, kiếm… ngụ ý thị uy, làm tăng thêm sức mạnh và lòng can
đảm của các chiến binh nơi trận mạc.
Toan Nghê là con thứ tám của rồng. Linh vật có mình sư tử, đầu
rồng, thích sự tĩnh lặng và thường ngồi yên ngắm cảnh khói hương tỏa lên nghi
ngút nên được đúc làm vật trang trí trên các lò đốt trầm hương, ngụ ý mong muốn
hương thơm của trầm hương luôn tỏa ngát.
Tiêu Đồ là con thứ chín của rồng. Linh vật có tính khí lười
biếng, thường cuộn tròn nằm ngủ, không thích có kẻ lạ xâm nhập lãnh địa của
mình nên thường được khắc ở những nơi cần sự yên tĩnh, ngụ ý răn đe kẻ lạ
muốn xâm nhập nhằm bảo vệ sự an toàn cho chủ nhà.
Đôi nghê đá quay vào trong đình, với hình giáng thân thiện
gần gũi. Có cái đầu với đôi mắt to, miệng rộng đặc trưng của Thao
Thiết là con thứ năm của rồng. Thân hình được trạm khắc béo mập,
dáng của một chú lợn trong dòng tranh dân gian Đông Hồ.
Hình tượng được chắt lọc và điển hình hóa, được viền bởi những
nét khắc chắc khoẻ mà mềm mại, không chỉ đẹp mà còn đúng về đặc điểm hình thể.
Có xoáy âm dương được trang trí trên mình để
thể hiện sự sinh sôi, phát triển có cái nhìn mang tính trang trí cao.
Về tâm linh, nó thể hiện ước muốn của dân làng là bình an, no ấm,
sinh sôi và phát triển.
Đôi nghê đá quay ra, đó là linh vật bảo vệ cho ngôi
đình, được trạm khắc với hình tượng con Công Phúc là con thứ sáu của rồng.
Theo truyền thuyết, nó là tổ tiên của con Tị Thủy Thú. Giống này đầu rồng, bốn
chân và đuôi đều có vảy rồng, miệng rộng.
Người ta quan niệm nó thường coi sóc sông ngòi bèn tạc hình
của nó ở các công trình hay phương tiện giao thông đường thủy như trên thành cầu,
đầu cầu, bến tàu, thuyền bè, ngòi rãnh dẫn nước, đập nước… với mong muốn Công
Phúc tiếp tục cai quản, điều hòa lưu lượng nước, ngăn ngừa lũ lụt. Vì thế,
ngoài ý nghĩa trang trí, nó còn hàm ý về sự bình yên.
Nhưng đôi Công Phúc này đã được bàn tay người thợ
tài hoa và giầu trí sáng tạo trạm khắc cái đầu rái cá cách điệu,
mình rồng ẩn hiện trong họa tiết
những đám mây vần vũ với những đường nét mền mại mà rất mạnh mẽ
linh hoạt nhưng vẫn toát lên vẻ hồ hởi thân thiện. Một nét đặc trưng
của nghê ở những ngôi đình Việt.
Ở làng Tiền Huân, những cụ già bảy, tám mươi tuổi vẫn thường
kể rằng. Khi mới lên năm, lên bảy, thường ra sân đình chơi và vẫn hay cưỡi nghê
đá như các con cháu của họ. Nhà thơ Khuất Quang Thái, người làng Tiền Huân,
trong bài thơ “Em có nghe”, ông đã viết:
“…
Về đi em
Với trăng quê trong trẻo
Sân đình mấy độ nắng mưa.
Ơi! Rồng đá, ơi! Kỳ lân đá
Lưng mịn màng, yên ngựa tuổi thơ
…”
Ngày nay, ta gặp nghê đá ở nhiều ngôi đình được cung
tiến vào là những linh vật ngoại lai, với những thân hình cơ bắp cuồn cuộn,
trông rất dữ tợn. Ta gặp những linh vật được tạo tác hàng loạt với những khuân
mẫu cứng nhắc, được gắn mác “nghê thuần Việt”. Ta gặp những linh vật được chế
tác với rất nhiều hoa văn phô diễn, nhưng về văn hóa lại thiếu tính tâm linh đặc
trưng của từng làng. Ngày nay, với sự hỗ trợ của những công cụ hiện
đại, công việc của người thợ trở nên đơn giản hơn. Với phong trào
phục dựng, tu bổ tôn tạo lại những ngôi đình. Rất nhiều người thợ có
tay nghề cao, tiếc là họ thiếu hiểu biết về lịch sử, văn hóa tâm linh. Nên
khi trùng tu, làm đẹp cho ngôi đình đã đánh mất đi giá trị cốt lõi
của di tích. Trùng tu mà chỉ có thể gia cố lại phần xác trong khi đã mất đi
phần hồn. Thì ta sẽ thấy hai đôi nghê cổ bằng đá ở đình Tiền Huân thực sự là
những hiện vật vô cùng quý giá còn lưu giữ được, nó thể hiện rõ tư duy tâm
linh, óc sáng tạo của người Việt. Giúp những nhà nghiên cứu, những người thợ chế
tác tạo hình trên linh vật tìm ra tinh hoa của nghệ thuật dân tộc để phát huy,
áp dụng vào những sáng tạo hiện đại.
Sơn Tây, tháng 8 năm 2018