Đền Sòng Sơn nổi tiếng trong dân gian với câu ca “Đền Sòng thiêng nhất xứ thanh”. Đền Sòng có tên chữ Sùng Sơn (xưa kia là Sùng Trân Miếu) thuộc trang Phú Dương, xã Cổ Đam, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, nay là phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hóa. Đền thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Đền Sòng Sơn được khởi dựng năm nào, đến nay vẫn chưa tìm được
tư liệu xác định chính xác. Truyền thuyết làng Cổ Đam kể rằng: Vào khoảng niên
hiệu Vĩnh Tộ nhà Lê (1619-1628) một ông lão người làng Cổ Đam được Tiên chúa Liễu
Hạnh nhập hồn báo mộng “Hãy nói với dân làng dựng cho Ta một ngôi đền để ta ngự,
Ta sẽ phù hộ cho các ngươi”.
Theo lời Tiên Chúa, vào một sáng cuối tháng Giêng, ông lão
mang một gậy tre đến khu vực Đền Sòng cắm xuống đất, thắp hương và khẩn cầu “Nếu
cây gậy này mà tươi tốt thì chúng con sẽ chọn đất này để lập đền tôn thờ tiên
chúa”.
Ít lâu sau cây gậy tre nảy lá, đâm măng, lớn lên thành bụi
tươi tốt. Dân làng cho rằng nữ thần Liễu Hạnh đã hiển thánh tại đây liền vận động
góp tiền của xây dựng bên cạnh bụi tre thần.
Ngôi Đền được tu bổ vào thời Cảnh Hưng, triều vua Lê Hiển
Tông (1740- 1786), Năm Duy Tân thứ sáu (1912), năm Khải Định thứ tư (1919), năm
Bảo Đại thứ ba (1928) và được tu sửa lại vào năm 1939.
Năm 1993 được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận là di tích lịch
sử - văn hóa cấp Quốc gia. Đền Sòng Sơn là nơi thờ Nữ Thần Vân Hương - Bà Chúa
Liễu Hạnh hay Thánh Mẫu Liễu Hạnh - Một trong Tứ vị Thánh bất tử của dân tộc Việt
Nam. Tại đền phối thờ các ông Hoàng Tứ Phủ và Đức Thánh Trần Hưng Đạo Vương.
Theo “Truyền kỳ tân phả” thì Liễu Hạnh là Đệ nhị Tiên chúa
Quỳnh Nương, con gái của Ngọc Hoàng Thượng đế, vì phạm lỗi đánh rơi chén ngọc
trong một buổi Lễ chầu Thiên Đình nên bị đầy xuống trần gian thác sinh vào nhà
họ Lê ở thôn Vân Cát, xã An Thái, huyện Thiên Bản, Phủ Nghĩa Hưng (nay là huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định) mang tên là Giáng Tiên. Sau 3 lần giáng phàm, Tiên chúa
được Ngọc Hoàng cho hạ giới mỗi khi Tiên chúa mong muốn và về sau không phải nhập
phàm nữa.
Nhờ có thần thông, Tiên chúa vân du ở khắp mọi vùng đất sơn
thuỷ, kỳ tú, Tiên chúa thường dùng phép thần trừng phạt kẻ ác, gia ân người hiền.
Người đã từng giúp đỡ các học trò nghèo như Cống Quỳnh, người quê Hoàng Hoá
trên đường ra Bắc đi thi, dùng phép mầu dạy bảo dân chúng vùng Tam Điệp, Ninh
Bình trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, hoá phép nhờ Phùng Khắc Khoan (tức Trạng
Bùng), khởi dựng lại chùa Bắc Lễ, Đền
Tiên (Tỉnh Lạng Sơn ), đàm đạo thơ văn với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Cử nhân
họ Ngô và Tú tài họ Lý ở Tây Hồ, thành phố Hà nội. Sau này Tiên chúa cưỡi mây,
bay vào ẩn cư bên núi Sóc Tỉnh Nghệ An.
Tiên Thánh được triều đình phong sắc: Mã Hoàng Công Chúa; Chế
thắng Hòa Diệu Đại Vương; Thượng thượng đẳng phúc thần. Có thể nói Tiên Chúa Liễu
Hạnh xuống trần không phải chỉ để mưu cầu hạnh phúc riêng cho mình, mà Tiên
chúa xuống Trần để lĩnh một sứ mệnh thiêng liêng cao cả là khuyến thiện, trừ
ác, ban phúc cho người tốt, giáng hoạ kẻ xấu, phò nước giúp dân.
Tưởng nhớ công đức của Thánh Mẫu, nhiều nơi trong cả nước đã
lập Đền thờ Mẫu. Trong hệ thống đền thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh thì uy nghi và linh
thiêng nhất vẫn là đền Sòng Sơn - Nơi Mẫu hiển Thánh.
Qua nhiều năm tháng, người dân ngày càng tin, tôn vinh và ngợi
ca huyền thoại Liễu Hạnh Công chúa, Đền Sòng trở thành nơi linh thiêng, nơi
sinh hoạt tín ngưỡng không thể thiếu của người dân Bỉm Sơn cũng như nhân dân
trên khắp mọi miền đất nước.
Đền Sòng Sơn tọa lạc trên một thế đất cao, tọa Đông Nam, hướng
Tây Bắc. kiến trúc hình chữ Tam theo truyền thống đền thờ Việt Nam với 3 cung
liên tiếp: Hậu cung (Chính tẩm), Trung Đường, Tiền Đường và ngoài cùng là cổng
Tam quan.
Cột của các gian điện thờ to gần nửa thước, chân kê đá tảng
cao 6 tấc, trên các cột có nhiều câu đối tôn vinh sự linh thiêng và công đức của
Thánh Mẫu, ca ngợi cảnh đẹp của Sòng Sơn. Phía trên giữa các gian thờ đều được
lắp đặt các cửa võng sơn son, thếp vàng.
Du khách qua cổng tam quan cao, đẹp cấu trúc hình chồng diêm
với 3 cửa bằng gỗ trắc: Cửa bên tả gọi là cửa Giới, qua cửa này được Thánh Mẫu
ban dạy những điều giới Phật, nên làm điều thiện, tránh làm điều ác. Cửa bên hữu
là cửa Định, qua cửa này được Thánh giúp cho tĩnh tâm, thanh lọc mọi điều phàm
tục. Cửa giữa là cửa Tuệ, qua cửa này mọi người được Thánh ban cho sự sáng suốt,
trí tuệ, mọi việc hanh thông.
Qua cổng tam quan, khách hành hương lần lượt bước vào chiêm
bái các cung thờ.
1. Cung đệ Nhất:
Là cung tiền đường, đây là cung thờ Hội đồng Thánh quan, Bài
trí các ban thờ gồm: Ban thờ Mẫu Cửu Trùng, Ban ông Quan Hoàng Bảy, ông Hoàng
Mười. Phía bên phải là Ban thờ Đức Thánh Trần - Hưng Đạo Đại Vương.
2. Cung đệ Nhị:
Qua cung tiền đường là cung đệ Nhị (cung Trung đường). Đây
là cung thờ Ngọc Hoàng thượng đế - vua cha của tiên chúa Liễu Hạnh. Bài trí ban
thờ vua cha Ngọc hoàng ở ngôi cao nhất, tiếp đến là các ban thờ Ngũ vị vương
quan là Thánh Cô, Thánh Cậu của Tiên chúa Liễu Hạnh. Hai bên các ban thờ là các
bộ chấp kích, đôi hạc bằng đồng cao gần 2m. Hình thức bài trí ban thờ trong
cung này thể hiện nét văn hoá phụng thờ gia tộc truyền thống Việt Nam.
3. Cung đệ Tam:
Qua cung trung đường là cung đệ Tam (Hậu cung chính tẩm -
cung Cấm thâm nghiêm). Cửa ra vào cung Cấm ít khi được mở, trừ những ngày lễ hội,
rước Thánh Mẫu vào tháng 2 Âm lịch hàng năm.
Ngày thường người dâng hương, đệ tử và khách thập phương chỉ
được đứng bên ngoài chiêm bái. Cung đệ tam (Cung Cấm) có 3 gian, được bài trí
theo thức hệ Tứ phủ, Tam tòa thánh Mẫu.
Không gian chính của cung Cấm được trải thảm đỏ. Gian giữa đặt
ban thờ và linh tượng Thánh Mẫu Liễu Hạnh, trong trang phục màu đỏ lỗng lẫy,
dáng ngồi uy nghi mà khoan dung, độ lượng. Tay trái đặt sấp trên gối, tay phải
đặt ngửa, năm ngón tay chụm lại theo thế bắt quyết.
Ngồi hai bên tả, hữu Thánh Mẫu là linh tượng hai tiên cô
theo hầu, kích thước nhỏ hơn linh tượng Thánh Mẫu. Bên trái là tiên cô Quế
Nương trong trang phục màu xanh, bên phải là tiên cô Nhị Nương trong trang phục
màu hồng.
Đây là hai tiên nữ được Ngọc Hoàng thượng đế phái xuống hầu
cận tiên chúa Liễu Hạnh khi được Ngọc Hoàng cho Tiên chúa giáng trần lần thứ ba
xuống vùng Phố Cát (Thạch Thành) và đây cũng là hai vị tiên nữ giúp cho người
trần được ngưỡng giao với tiên chúa.
Trong gian giữa chính tẩm phía trên linh tượng Thánh Mẫu
treo bức đại tự sơn son thếp vàng, với bốn mỹ tự “Mẫu Nghi Thiên Hạ” (Người Mẹ
của muôn dân).
Gian bên trái đặt ban thờ Mẫu Thoải (Mẫu cai quản vùng sông
nước) với linh tượng trong trang phục màu xanh, yếm trắng.
Gian bên phải đặt ban thờ Mẫu Thượng Ngàn (Mẫu cai quản vùng
núi rừng) với linh tượng trong trang phục màu vàng, yếm đỏ.
Trong các cung thờ có hơn 40 bức hoành phi, câu đối, đại tự
được cung tiến trong dịp trùng tu tôn tạo lại đền năm 1998 với nội dung suy
tôn, ngợi ca công đức, sự linh thiêng của Thánh Mẫu và cảnh đẹp của vùng đất
thiêng Sòng Sơn.
Đặc biệt trong Cung cấm, ngoài bức Đại tự “Mẫu Nghi Thiên Hạ”
ở gian chính điện, Gian bên tả có bức đại tự “Vạn Cổ Anh Linh” (Linh thiêng
muôn thuở). Gian bên hữu có bức đại tự “Sùng Sơn hiển Thánh” (Hiển Thánh ở Sòng
Sơn).
Trong Cung cấm đền Sòng Sơn có nhiều câu đối cổ, hai cột
gian giữa có câu đối
“Sòng Sơn hiển tích thiên thu tại,
Thanh Hoá danh lam vạn cổ truyền”.
Nghĩa là:
“Sòng Sơn dấu tích nghìn thu sáng,
Thanh Hoá danh lam muôn thuở còn”.
(Lời dịch của ông Trịnh Ngữ - Nguyên Giám đốc bảo tàng Thanh
Hóa)
Trước đền có một hồ nước tự nhiên hình bán nguyệt quanh năm
xanh trong, tương truyền đó là hồ cá thần, hàng năm vào dịp tháng giêng, tháng
hai, xuất hiện một đàn cá toàn thân màu đỏ lũ lượt kéo nhau bơi lội trong hồ,
nhưng khi hết lễ hội thì đàn cá tự nhiên không thấy nữa.
Nhân dân quanh vùng nói đó là các nàng tiên trên thượng giới
hóa phép về hầu Tiên chúa Thánh Mẫu Liễu Hạnh.Qua cây cầu hình vòng cung vượt
con suối nhỏ đến khu đồi bên cạnh là khu đền thờ Đức thánh Trần Hưng Đạo Vương
uy nghi. Từ hồ cá thần có hai con suối nhỏ chảy lượn quanh khiến cho ngôi đền
như ngự trên một hòn đảo nhỏ bồng bềnh giữa mây trời non nước.
Đến với di tích đền Sòng Sơn du khách không những được dâng
hương tưởng nhớ các vị thánh, thần tại để thỏa mãn ý nguyện tâm linh, mà còn được
tham quan, khám phá một vùng non nước hữu tình, thiên nhiên thơ mộng, được thưởng
ngoạn, tìm hiểu các hoạt động văn hóa truyền thống đặc sắc của một vùng quê
thông qua các kỳ lễ hội. Dân gian xưa đã được lưu truyền rằng”
"Nhất vui là Hội Phủ Giầy
Vui là vui vậy, chẳng tày Sòng Sơn"
Kiệu Long Phượng rước Thánh Mẫu Liễu Hạnh
Nghi lễ rước bát hương thánh Mẫu từ cung cấm ra lễ đài.
Phần Hội tái hiện lại công đức của Thánh mẫu Liễu Hạnh.
Lễ hội Sòng Sơn - Ba Dội thường diễn ra từ ngày 24-26/2 Âm lịch
hàng năm. Phần lễ được tổ chức trang nghiêm với các nghi lễ rước Thánh mẫu,
cúng tế thu hút hàng ngàn người tham gia. Phần hội cũng khá phong phú với nhiều
tiết mục đặc sắc mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc và sắc thái địa phương như biểu
diễn văn nghệ hầu quan thánh, hầu văn do các bản hội trong vùng thể hiện.
Sau phần lễ và hội ở đài lễ, nghi thức lễ rước bóng Thánh Mẫu
được cử hành.Đoàn rước xuất phát từ lễ đài, dọc theo con đường Thiên Lý lên Nhà
Bia Ba Dội.Kiệu vàng Thánh Mẫu là trung tâm của đoàn rước, đi sau hầu kiệu là
hàng ngàn bà con nhân dân trong và ngoài địa bàn cùng các bản hội và du khách
thập phương.
Khi trời chính Ngọ cũng là lúc đoàn lên đến đỉnh Đèo Ba Dội,
đoàn quay về dâng hương tại đền Chín Giếng và xa giá hồi cung làm lễ vị hoàn tại
đền Sòng Sơn.
Trong khuôn khổ lễ hội Đền Sòng Sơn – Ba dội còn diễn ra nhiều
hoạt động như: Hội thi Hầu văn Thánh, cờ tướng, kéo co, thi nấu cơm.
Rước Kiệu Thánh Mẫu từ Đền Sòng Sơn qua đền Chín Giếng và
lên đèo Ba Dội.
Lễ hội Sòng Sơn - Ba Dội không chỉ là niềm tự hào của người
dân xứ Thanh mà còn là điểm đến tâm linh tín ngưỡng có giá trị trường tồn trong
văn hoá người Việt.
Lầu Cô Chín
Ban thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế
Ban thờ Chúa Sơn Trang
Ban thờ Mẫu Thượng Ngàn mới được trùng tu.
Ban thờ Ngũ vị Tôn Ông
Ban thờ Chầu Đệ Tứ