Lễ hội là một trong những bộ phận cấu thành nên nền văn hóa của một quốc gia, dân tộc. Nó được xem là hiện tượng văn hóa tổng hợp, quy tụ mọi sinh hoạt văn hóa vật chất, tinh thần đã được sàng lọc, duy trì và liên tục được bổ sung theo thời gian. Do đó, lễ hội đồng thời cũng là một sản phẩm du lịch có giá trị cao cần phát huy.
KHAI THÁC LỄ HỘI DÂN GIAN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRONG
PHÁT TRIỂN DU LỊCH
NGUYỄN TRỌNG NHÂN- ThS. Trường Đại học Cần Thơ.
1. Khái niệm lễ hội dân gian
Lễ hội là một trong những bộ phận cấu thành nên nền văn hóa
của một quốc gia, dân tộc. Nó được xem là hiện tượng văn hóa tổng hợp, quy tụ mọi
sinh hoạt văn hóa vật chất, tinh thần đã được sàng lọc, duy trì và liên tục được
bổ sung theo thời gian. Mục đích chính của lễ hội là nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm
linh, tín ngưỡng, vật chất của con người.
Thuật ngữ lễ hội bao gồm hai nội dung: Lễ là các hành vi
(cúng, vái, lạy, tụng, niệm, cầu khẩn, rước, v.v) đã được cộng đồng quy ước
theo một quy cách chặt chẽ nhằm thể hiện lòng tin, sự tôn kính của con người đối
với đấng nhân thần được sùng kính. Hội là một hay một số trò chơi dân gian mang
tính chất vui chơi giải trí. Bởi vậy dân gian có câu: “Vui xem hát, nhạt xem
bơi, tả tơi xem hội”.
Như vậy, lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa mang tính tổng
hợp các yếu tố tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hóa nghệ thuật,
linh thiêng và đời thường trong mối quan hệ giữa con người với thần linh, con
người với con người và con người với tự nhiên.
Là một bộ phận của nền văn hóa dân gian được sáng tạo và bảo
tồn, lưu truyền lâu đời trong lòng xã hội từ xưa đến nay. Lễ hội dân gian là loại
hình sinh hoạt văn hóa - xã hội mang tính tổng hợp các yếu tố tôn giáo tín ngưỡng,
phong tục tập quán, văn học nghệ thuật, thế giới quan, nhân sinh quan, v.v, của
cộng đồng dân cư ở một địa bàn cụ thể trong một thời gian nhất định.
Theo Trương Thìn (2007), lễ hội mới chỉ xuất hiện khi loài
người đã sống trong một xã hội có tổ chức cao (xã hội văn minh nông nghiệp), tức
là lễ hội chỉ xuất hiện khi con người đã có tư duy trừu tượng.
Từ lâu lễ hội dân gian đã trở thành nhu cầu, khát vọng của
nhân dân vì ở đó con người có thể tìm lại sự hồn nhiên, những cảm xúc chân thực
và sự đồng cảm.
2. Nguyên nhân hình thành và ý nghĩa của lễ hội dân gian
vùng đồng bằng sông Cửu Long
Thứ nhất, phương thức canh tác nông nghiệp là tác nhân quan
trọng thúc đẩy việc hình thành lễ hội dân gian. Nếu căn cứ vào thời điểm ra đời
của lễ hội dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long thì lực lượng sản xuất còn ở
trình độ thấp. Các hoạt động sản xuất của con người, đặc biệt là trồng lúa nước
còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên. Nhưng ước vọng mưa thuận gió
hòa, cây cối tốt tươi, mùa màng bội thu luôn tồn tại và đã trở thành nhu cầu ở
mỗi con người từ xa xưa.
Một trong những phương cách có thể giúp thỏa mãn nhu cầu đó
ít ra về mặt tinh thần là dựa vào thần thánh. Các hoạt động cúng kiến, cầu xin
thần thánh phù hộ, bảo trợ mùa màng được tiến hành với quy mô lớn, dần đã trở
thành lễ hội. Trong lễ hội nông nghiệp, người dân thường thờ chung một vị thần
nào đó nên thể hiện được tính đoàn kết cộng đồng và sức mạnh dân tộc.
Thứ hai, lễ hội dân gian còn được hình thành trên cơ sở truyền
thống đạo lý “uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng cây”. Cư dân vùng đồng
bằng sông Cửu Long nói riêng và cư dân Việt nói chung từ lâu đã có quan niệm
“nhớ ơn” ông bà tổ tiên, cha mẹ; người có công đánh giặc bảo vệ Tổ quốc, người
chữa bệnh cứu người, người có công khai phá vùng đất mới, v.v, cho đến thần
linh thậm chí cá voi.
Hàng năm, người dân tổ chức các buổi lễ để cúng kiến người
quá cố, cá voi, thần linh nhằm tưởng nhớ và bày tỏ lòng tri ân. Lễ hội còn là dịp
giúp con người trở về với nguồn cội, là hình thức giáo dục cho các thế hệ sau
biết giữ gìn, kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống quý báu của
dân tộc; là dịp con người được giãi bày phiền muộn, lo âu với tổ tiên, người
quá cố và thần linh, đồng thời mong họ giúp đỡ, che chở để vượt qua những khó
khăn, vất vả trong cuộc sống.
Thứ ba, lễ hội xuất phát từ nhu cầu vui chơi giải trí của
các tầng lớp nhân dân. Vui chơi giải trí là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống
của con người đặc biệt là nhân dân lao động. Sau thời gian lao động vất vả, mệt
nhọc con người có nhu cầu vui chơi để giải tỏa những căng thẳng, mệt mỏi trong
đời sống thường nhật nhằm cân bằng thể chất và tinh thần, “tái tạo sức lao động”
và làm việc đạt hiệu quả.
3. Một số lễ hội dân gian tiêu biểu ở vùng đồng bằng sông Cửu
Long
3.1. Lễ hội Bà Chúa Xứ
Lễ hội Bà Chúa Xứ hay lễ Vía Bà Chúa Xứ được tổ chức từ ngày
23 đến ngày 27 tháng 4 âm lịch hàng năm tại miếu Bà Chúa Xứ dưới chân triền
đông núi Sam thuộc làng Vĩnh Tế, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.
Lễ hội thu hút đông đảo người đến từ các tỉnh vùng đồng bằng
sông Cửu Long, nhiều tỉnh miền Đông Nam Bộ và miền Trung nhằm cúng bái, cầu xin
sức khỏe, làm ăn phát đạt.
Về nguồn gốc tượng Bà Chúa Xứ, hiện nay có một số quan điểm
như sau: năm 1941, sau khi nghiên cứu tượng Bà Chúa Xứ, căn cứ vào hình dáng và
chất liệu, nhà khảo cổ học người Pháp Malleret đã xác định rằng đây pho tượng
thần Vishnu được tạo vào khoảng cuối thế kỷ thứ 6 đầu thế kỷ thứ 7 sau Công
nguyên, có thể chủ nhân của tượng là người Phù Nam (Sơn Nam, 2005; Huỳnh Quốc
Thắng, 2003).
Vì tượng là một trong những vị thần của đạo Bà La Môn khác với
đạo Phật nên người Khmer không tôn thờ. Đây là tượng thần đàn ông, nếu là nữ thần
ắt bộ ngực phải to, theo mô thức tạo hình Ấn Độ. Tượng được đưa vào miếu, tô điểm
lại, cho mặc áo, đeo trang sức, xem là tượng Bà (Sơn Nam, 2004). Người Việt từ
xưa đã có tục thờ Bà, chẳng hạn như: Tây Vương mẫu, Cửu Thiên huyền nữ, Bà Chúa
Xứ, Bà Chúa Ngọc hoặc Liễu Hạnh công chúa.
Nhưng tượng ở đây được lấy tên Bà Chúa Xứ có thể xuất phát từ
truyền thuyết: khi dân chúng phát hiện tượng Bà trên đỉnh núi Sam định khiêng về
làng lập miếu thờ nhưng không khiêng nổi, lúc đó có một thiếu nữ lên đồng, tự
xưng là Bà Chúa Xứ và mách cho dân làng cách khiêng tượng Bà xuống núi bằng nhiều
cô gái đồng trinh!
Nhiều người Kinh quan niệm Bà Chúa Xứ là một dạng của Phật
Bà Quan Âm; đối với người Hoa họ quan niệm Bà là hóa thân của bà Thiên Hậu (Sơn
Nam, 2005) nên họ rất kính cẩn.
Hai câu liễn đối treo ở miếu Bà có nội dung thể hiện sự linh
thiêng và uy lực của Bà trong việc “ban phúc giáng họa” cho con người: “Xin thì
được, ban cho thì linh thiêng, báo trong giấc mộng. Người Xiêm sợ hãi, người
Hoa kính mộ, ý tứ khôn lường”.
Ngày 25 tháng 4 được xem là ngày chính lễ vì theo dân gian
đây là ngày địa phương phát hiện tượng Bà hoặc là ngày an vị tượng Bà sau khi
Bà được khiêng từ trên núi xuống; cũng có thể đây là thời điểm lúc đồng ruộng
đã xuống giống nên người dân tại làng tổ chức lễ nhằm tạ ơn và cầu mong Bà cùng
trời đất, thần thánh giúp mưa thuận gió hòa, đất nước thái bình, mùa màng tốt
tươi, dân khang vật thịnh (Huỳnh Quốc Thắng, 2003).
Các nghi lễ chính
trong lễ hội Bà gồm có: lễ Tắm Bà, lễ Thỉnh sắc Thoại Ngọc Hầu, lễ Túc yến, lễ
Xây chầu, lễ Chánh tế và lễ Hồi sắc. Nội dung chủ yếu của các phần lễ là tắm rửa,
thay siêm y cho Bà; cúng Bà, Thoại Ngọc Hầu và các vị nhu nhân của Thoại Ngọc Hầu;
cầu xin mưa thuận gió hòa, đất đai tốt tươi, mùa màng bội thu, dân chúng khỏe mạnh,
yên vui, các loài quỷ dữ bị tiêu diệt, v.v.
3.2. Lễ Chôl Chnăm Thmây
Lễ Chôl Chnăm Thmây hay lễ Chịu tuổi được tổ chức vào khoảng
giữa tháng 4 dương lịch hàng năm. Đối với người Khmer lễ này có ý nghĩa rất
quan trọng vì nó được xem là ngày mở đầu cho năm mới, mở đầu thời vụ mới, ngày
hạnh phúc, tươi vui nhất; đồng thời cũng là dịp để giáo dục con người về tấm
lòng hiếu thảo, biết ơn đối với ông bà, cha mẹ và những người có công đã qua đời,
về ý thức hướng thiện.
Lễ hội thường được tổ chức trong 3 ngày. Ngày thứ nhất, đồng
bào Khmer chọn một giờ tốt (thường vào lúc 7 giờ sáng, 5 giờ chiều tùy theo
năm) để tắm gội sạch sẽ, mặc quần áo đẹp, mang lễ vật, nhang đèn vào chùa làm lễ
rước lịch Maha Sangkran (gọi là đại lịch, do các vị đại đức thông khoa thiên
văn soạn dùng cho một năm).
Một vị Acha2 điều khiển mọi người đứng xếp hàng rồi đi quanh
chính điện, vừa đi vừa tụng kinh mừng năm mới.
Ban đêm, những người lớn tuổi tụ họp trong giảng đường nghe
sư thuyết pháp, còn thanh niên nam nữ thì tham gia các trò chơi dân gian, hát
dù kê, rô băm, múa lăm thôn, v.v, tại sân chùa. Ngày thứ hai, người ta dâng cơm
cúng dường các nhà sư vào buổi sáng; các sư tụng kinh cầu phúc cho những người
đã đem lễ cúng dường.
Vào buổi chiều, người dân tiến hành lễ đắp núi cát nhằm ngăn
trở ma quỷ và những điều xấu, đồng thời nhắc nhở mọi người nên tích phúc để
ngày một cao lớn như núi và lan dần khắp bốn phương, tám hướng.
Ngày thứ ba, đồng bào Khmer tiến hành lễ tắm Phật, tắm các vị
sư cao niên, các ngôi tháp đựng hài cốt, v.v. Đây là một nghi lễ rất quan trọng
đối với đồng bào Khmer vì họ tin tưởng rằng sẽ được Phật tha thứ cho những lỗi
lầm thiếu sót trong năm cũ, đồng thời ban nhiều sức khỏe, ý nguyện đạt thành,
xóm làng yên ổn, tai qua nạn khỏi, v.v, trong năm mới.
Chôl Chnăm Thmây là lễ hội văn hóa đặc sắc của đồng bào dân
tộc Khmer, góp phần làm giàu thêm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam.
3.3. Lễ Sen Dolta và hội Đua bò Bảy Núi
Lễ Sen Dolta hay là lễ Cúng ông bà, được tổ chức từ ngày 29
tháng 8 đến ngày 1 tháng 9 âm lịch hàng năm (nếu tháng thiếu ngày 30 thì lễ kéo
dài đến ngày 2 tháng 9).
Từ xa xưa, người Khmer cho rằng sau khi con người chết đi phần
xác mất nhưng phần hồn vẫn còn tồn tại mãi mãi. Xuất phát từ đó, hình thức Sen
(cúng) không thể thiếu trong đời sống tâm linh của đồng bào với mục đích tưởng
nhớ công ơn tổ tiên, cha mẹ và đồng thời cầu nguyện những người đã khuất ban
phước lành cho gia đình, phum, sóc.
Lễ Sen Dolta được tổ chức tại nhà và tại chùa trong 3 ngày.
Ngày thứ nhất, người dân cúng ông bà quá cố; tiếp theo họ đến thăm hỏi và tặng
quà cho ông bà, cha mẹ còn sống, đồng thời mang theo lễ vật để cúng tổ tiên.
Sau phần nghi thức này, cả gia đình cùng ăn cơm. Ngày thứ
hai, đồng bào thức dậy sớm để chuẩn bị các thứ cần thiết đi chùa làm lễ
phchumbinh (góp lễ vật). Trong thời gian lễ đồng bào được nghe các vị sư tụng
kinh chúc phúc, được nghe thuyết pháp với những nội dung mang tính giáo dục
khuyên bảo mọi người làm điều lành, răn đe để tránh làm điều xấu.
Ngày thứ ba, đồng bào Khmer tổ chức cúng ở nhà để đưa ông
bà, tổ tiên về nơi cũ vì theo quan niệm của người dân, mỗi năm vào dịp Sen
Dolta ông bà, tổ tiên về chung vui cùng con cháu và khi xong cũng phải về. Để
chuẩn bị phương tiện cho ông bà về được an toàn, người dân làm bè bằng thân và
bẹ cây chuối, trên đó có để đồ cúng rồi thả xuống sông, rạch.
Hình thức này phù hợp với đặc điểm địa lý sông nước vùng đồng
bằng sông Cửu Long vì vào lễ Sen Dolta nước dâng cao đi đường bộ khó khăn (thuở
xưa). Những ngày lễ Sen Dolta, tại các chùa Khmer còn tổ chức nhiều hoạt động
biểu diễn các loại hình nghệ thuật như: hòa nhạc ngũ âm, hát dù kê, múa Ramvong,
v.v.
Một trong những hoạt động vui chơi giải trí hấp dẫn dịp lễ
Sen Dolta là hội Đua bò Bảy Núi. Đây được xem là hoạt động thể thao đầy ý nghĩa
gắn liền với đời sống canh nông của người Khmer. Tương truyền, hàng năm vào mùa
gieo cấy, trai tráng trong vùng mang bò về cày bừa đất cho nhà chùa để phụ nữ
trồng lúa.
Dịp này, các trai tráng rủ nhau đua trong tình trạng bò còn
đang mang cày, mang bừa nhằm tạo không khí vui tươi trong lao động. Sau những
cuộc đua, nhà chùa thưởng cho các đôi bò thắng cuộc. Tập tục đó dần phát triển
thành hội Đua bò.
Hội Đua bò diễn ra hàng năm ở hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên
của tỉnh An Giang. Hội này đã có từ rất lâu nhưng đến những năm 1991 - 1992 đã
được nâng lên thành ngày hội truyền thống được tổ chức hàng năm với quy mô ngày
càng mở rộng ở An Giang.
Để tham gia vòng đấu chung kết các cặp bò phải trải qua những
cuộc thi đấu vòng loại với những cặp bò trong xã và xã khác. Cuộc đua bò được
thực hiện trên mảnh đất ruộng nước xâm xấp có phân đường đua.
Đến lượt đua, mỗi đôi bò đi rảo hai vòng quanh trường đua để
“khoe tướng” và “khởi động” gọi là vòng hô. Hết vòng hô, ngang vạch xuất phát
thấy người phất cờ là vào vòng thả ăn thua.
Dựa vào cự ly về đích trước hoặc đội xuất phát sau đạp lên
được bừa của đội xuất phát trước để phân định thắng thua. Với những giá trị văn
hóa truyền thống và sức hấp dẫn vốn có của nó, hội Đua bò Bảy Núi đã được Sở
Văn hóa Thể thao và Du lịch An Giang chọn làm điểm nhấn trong tour du lịch mùa
nước nổi ở tỉnh.
3.4. Lễ Ok Om Bok và hội Đua ghe ngo
Lễ Ok Om Bok hay là lễ Cúng trăng của người Khmer được tổ chức
vào ngày 14 và 15 tháng 10 âm lịch hàng năm3. Mục đích chính của lễ này là nhằm
tạ ơn thần mặt trăng trong năm đã đem lại mưa thuận gió hòa, bảo vệ mùa màng,
giúp mùa màng bội thu cho mọi nhà và đồng thời cầu xin thần mặt trăng phù hộ
cho bà con trúng mùa trong năm tới. Lễ này được tổ chức tại sân chùa, sân nhà
hoặc một khu đất trống nào đó để người ta dễ dàng quan sát mặt trăng.
Lễ vật cúng trăng là cốm dẹp, dừa tươi, chuối, khoai lang,
khoai môn, bánh kẹo, v.v, đặt trên cái bàn cúng dưới cổng làm bằng tre. Khi
trăng lên đỉnh đầu, bà con Khmer cử một người lớn tuổi, đức độ, có uy tín đại
diện cúng trăng.
Vị chủ lễ khấn vái nói lên lòng biết ơn của bà con đối với
thần mặt trăng, xin thần mặt trăng tiếp nhận những lễ vật do bà con dâng cúng
và cầu xin thần mặt trăng ban cho mọi người sức khỏe dồi dào, cho mưa thuận gió
hòa, cho năm mới trúng mùa, cuộc sống được no đủ, hạnh phúc.
Cúng trăng xong, vị chủ lễ bảo trẻ em xếp thành hàng dọc,
hai tay chắp lại hướng về phía mặt trăng. Sau đó vị chủ lễ lấy thức cúng mỗi thứ
một ít đút vào miệng trẻ em. Lúc đó, người chủ lễ mới đấm nhè nhẹ vào lưng mỗi
đứa trẻ ba cái và hỏi các em năm nay muốn gì.
Theo quan niệm từ xưa, việc làm này để đoán định tương lai của
đứa bé và cũng tượng trưng cho việc mọi người đã nhận được lộc của thần mặt
trăng. Xong thủ tục này, mọi người cùng nhau ăn uống, múa hát vui chơi đến tận
khuya.
Hội Đua ghe ngo gắn liền với lễ Ok Om Bok. Hội này diễn ra
vào buổi sáng ngày 15 tháng 10 âm lịch. Ghe ngo theo tiếng Khmer là “Tuk ngo”,
một loại thuyền độc mộc được khoét từ thân cây gỗ tốt (sao, vên vên, v.v). Ghe
có chiều dài khoảng 25 đến 30 m, chiều ngang khoảng 1,2m. Sức chứa của mỗi ghe
khoảng 45 - 50 tay đua.
Đối với người Khmer, ghe ngo không phải là một loại ghe thường
mà là một vật linh thiêng. Ghe ngo chính là biểu tượng sức mạnh của người
Khmer, nên đua ghe ngo nhằm thể hiện sức mạnh và sự dẻo dai của dân tộc trong
việc chinh phục thiên nhiên và chống lại kẻ thù.
Ghe ngo được bảo quản tại chùa và mỗi năm chỉ đưa xuống nước
một lần trong ngày lễ Ok Om Bok. Trước khi hạ thủy, người ta thường làm lễ tạ
thần, thắp hương cúng vái và sau đó chọn người điều khiển, người lái, quân dầm
bơi và tổ chức chiêu đãi những người tham gia cuộc thi. Đội quân bơi đều là những
thanh niên trai tráng khỏe mạnh, có kinh nghiệm trong thi đấu, biết phối hợp động
tác chặt chẽ.
Trước ngày hội, người ta tiến hành tập dượt công phu, trước
tiên là bơi trên bờ, sau đó bơi dưới nước. Người được chọn ngồi mũi để chỉ huy
phải là người có uy tín đối với bà con và có kinh nghiệm đua ghe ngo. Cuộc đua
ghe ngo diễn ra rất quyết liệt nhưng không phải vì giá trị tiền thưởng mà vì
danh dự và niềm vinh quang của phum, sóc.
4. Hiện trạng khai thác lễ hội dân gian vùng đồng bằng sông
Cửu Long trong phát triển du lịch
Cùng với các di tích lịch sử văn hóa, vùng đồng bằng sông Cửu
Long có nhiều hoạt động lễ hội trong năm. Căn cứ vào nội dung hoạt động có thể
chia lễ hội ở Vùng thành các loại: lễ hội lịch sử, lễ hội tôn giáo - tín ngưỡng
và lễ hội dân gian. Các lễ hội đặc sắc nhất Vùng tập trung ở các tỉnh An Giang,
Sóc Trăng, Trà Vinh và Kiên Giang.
Trong số các lễ hội ở Vùng, lễ hội dân gian đóng vai trò rất
quan trọng và có khả năng khai thác phục vụ phát triển du lịch. Tuy nhiên, hiện
tại chỉ có lễ hội Bà Chúa Xứ, hội Đua ghe ngo, hội Đua bò Bảy núi là có sự tham
gia đông đảo khách du lịch hàng năm.
Ước tính hàng năm các lễ hội này có khoảng 2,5 triệu người
tham dự. Theo sự đánh giá của Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2010), trong
thời gian gần đây khách du lịch lễ hội dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long
phát triển nhanh, chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng cơ cấu khách du lịch.
Hiện tại, hoạt động du lịch lễ hội dân gian vùng đồng bằng
sông Cửu Long diễn ra một cách tự phát nên khâu tổ chức, quản lý và thống kê du
lịch còn hạn chế và gặp nhiều khó khăn. Đây là tình trạng phổ biến đối với nhiều
loại hình du lịch khác ở Việt Nam khi mà địa bàn hoạt động du lịch không nằm hẳn
trong một điểm, một tỉnh cụ thể.
Nói chung, công tác thống kê về du lịch của Việt Nam hiện
nay chưa tốt, chỉ mới dừng lại ở việc thống kê du lịch chung trên cơ sở từng điểm,
tỉnh, vùng, cả nước chứ chưa phân ra được theo từng loại hình du lịch cụ thể.
Chính điều này ảnh hưởng rất lớn đến công tác nghiên cứu nhằm phản ánh xu thế
phát triển và thiếu cơ sở cho việc nhận định tình hình và dự báo tương lai.
Đối tượng tham gia chính của loại hình du lịch lễ hội dân
gian vùng đồng bằng sông Cửu Long là những người lớn tuổi, những người có nghề
buôn bán, kinh doanh, những sinh viên, nông dân. Họ tham gia lễ hội để cầu may,
cầu phúc, cầu lộc, vui chơi giải trí, tìm hiểu.
Phương tiện di chuyển chủ yếu là ô tô, vỏ máy, xe máy thuê
hoặc của cá nhân. Khách có nhu cầu cao trong việc mua sắm hàng lưu niệm để tặng
người thân và bạn bè. Hình thức tổ chức du lịch chủ yếu theo dạng nhóm thông
qua việc mua tour của công ty du lịch hoặc tự tổ chức. Số khách đi theo dạng cá
nhân rất ít.
Do thời gian diễn ra lễ hội tương đối ngắn nên số người lưu
trú qua đêm chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Điều này làm cho hiệu quả khai thác các lễ hội
chưa cao.
Các lễ hội Bà Chúa Xứ, hội Đua ghe ngo, hội Đua bò Bảy núi
thực sự có khả năng phát triển mạnh, trở thành các điểm hấp dẫn thu hút khách,
rất có tiềm năng không chỉ với thị trường khách nội địa mà còn cả khách quốc tế
(Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, 2010).
Hiện nay, hạn chế rất lớn đối với du lịch lễ hội dân gian
vùng đồng bằng sông Cửu Long là tình trạng khai thác chứ chưa có đầu tư gì đáng
kể cho công tác nghiên cứu cũng như đầu tư tài chính để xây dựng phát triển loại
hình du lịch này.
5. Đánh giá về phát triển du lịch lễ hội dân gian vùng đồng
bằng sông Cửu Long
5.1. Những điểm mạnh
Qua quá trình nghiên cứu có thể nhận định một số điểm mạnh đối
với du lịch lễ hội dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long như sau: Các lễ hội
còn giữ được nguyên vẹn giá trị truyền thống; mỗi lễ hội đều có những nét văn
hóa đặc sắc riêng; lễ hội diễn ra ở các mùa trong năm; địa bàn diễn ra lễ hội
tiếp cận khá dễ dàng; người dân nơi tổ chức lễ hội thân thiện, mến khách, v.v.
5.2. Những điểm yếu
Du lịch lễ hội dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long còn có
những hạn chế như sau:
-Đội ngũ lao động du lịch còn thiếu về số lượng và yếu về chất
lượng;
-Tình trạng mất trật tự, các tệ nạn xã hội trong lễ hội;
khâu quản lý, điều tiết lượng khách đến lễ hội còn hạn chế gây ách tắc giao
thông;
- Giá cả hàng hóa và dịch vụ tăng cao vào mùa lễ hội;
- Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ mùa lễ hội
còn hạn chế;
- Ý thức của người đi lễ hội và cả người dân địa phương đối
với vấn đề an ninh trật tự và bảo vệ môi trường chưa tốt;
-Lễ hội chưa được “chế biến” thành sản phẩm du lịch thực sự;
-Công tác thống kê, cung cấp các thông tin du lịch liên quan
đến lễ hội còn kém;
- Hàng lưu niệm ở nơi diễn ra lễ hội chưa đa dạng và đặc sắc;
tinh thần thi đấu trò chơi trong lễ hội còn quá nặng chuyện ăn thua làm mất
không khí vui tươi, trong sáng, thiêng liêng của buổi hội, v.v.
5.3. Những cơ hội
Việc phát triển du lịch lễ hội dân gian vùng đồng bằng sông
Cửu Long có những cơ hội như sau: khách du lịch quốc tế và nội địa đến vùng vì
mục đích lễ hội không ngừng gia tăng; Nhà nước có những chủ trương, chính sách
và tạo điều kiện để hoạt động lễ hội diễn ra thuận lợi; sự phát triển ngày càng
nhanh chóng của cơ sở hạ tầng và cở sở vật chất kỹ thuật; lễ hội được xác định
là sản phẩm du lịch đặc trưng trong “Đề án Phát triển du lịch Vùng đến năm
2020”; sự ra đời của Hiệp hội Du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long sẽ là tác
nhân thúc đẩy sự phát triển du lịch của Vùng nói chung và du lịch lễ hội nói
riêng, v.v.
5.4. Những thách thức
Du lịch lễ hội dân gian cũng như các loại hình du lịch khác ở
vùng đồng bằng sông Cửu Long bên cạnh những cơ hội còn có những thách thức tiềm
ẩn: tình trạng ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu; bị cạnh tranh và thay thế
bởi các sản phẩm du lịch đặc trưng khác ở Vùng: du lịch sinh thái, du lịch tìm
hiểu văn hóa, du lịch tham quan miệt vườn, sông nước, du lịch cộng đồng, du lịch
tham quan di tích lịch sử, cách mạng, du lịch thương mại, công vụ; bị cạnh
tranh bởi các nước trong tiểu vùng Mekong; sự tác động của nền kinh tế thị trường,
hội nhập quốc tế, v.v.
6. Định hướng phát triển du lịch lễ hội dân gian vùng đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020
6.1. Định hướng về thị trường khách
6.1.1. Định hướng về
các thị trường khách du lịch quốc tế
Theo Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2010), dựa trên những
giá trị về lễ hội dân gian vùng đồng bằng sông Cửu Long, yếu tố tâm lý và sở
thích đối với một số thị trường khách du lịch quốc tế, có thể khai thác loại
hình du lịch lễ hội để phục vụ một số thị trường khách tiêu biểu như: thị trường
khách Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Mỹ, Úc và New Zealand. Các thị trường này có đặc
điểm chung là hàng năm đến Việt Nam nói chung, đồng bằng sông Cửu Long nói
riêng với số lượng nhiều; khả năng chi trả cao; đòi hỏi các dịch vụ và tiện
nghi chất lượng; rất quan tâm đến vấn đề an toàn và bảo vệ môi trường.
6.1.2. Định hướng về thị
trường khách du lịch nội địa
Khách du lịch nội địa đến vùng đồng bằng sông Cửu Long rất
đa dạng về độ tuổi, thành phần xã hội và nghề nghiệp với các hình thức tổ chức
du lịch khác nhau (gia đình tự tổ chức, mua tour từ công ty du lịch và tự tổ chức
theo kiểu nhóm bạn bè).
Căn cứ vào những đặc điểm về tâm lý, nhu cầu, sở thích, khả
năng chi tiêu, hình thức tổ chức, Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2010) đã
xác định các thành phần khách cần được ưu tiên khai thác như sau:
Thứ nhất, những khách thuộc lứa tuổi về hưu đối với nữ và gần
về hưu đối với nam (trên 55 tuổi).
Thứ hai, khách có thu nhập và trình độ văn hóa ở dạng trung
bình.
Thứ ba, những khách độc thân, đi du lịch theo tour, nhóm thuộc
tầng lớp buôn bán và làm nghề thủ công.
6.2. Định hướng đầu
tư phát triển du lịch lễ hội dân gian
Trong “Đề án phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long đến
năm 2020”, một trong những vấn đề cần được ưu tiên đầu tư phát triển được Viện
Nghiên cứu Phát triển Du lịch (2010) đưa ra là: “Đầu tư phục hồi, phát triển
các lễ hội nhằm đa dạng hóa sản phẩm du lịch và nâng cao hiệu quả kinh tế - xã
hội của lễ hội”.
Trong giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2020, ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long có tất cả 23 dự án được ưu tiên đầu tư với tổng kinh phí dự kiến
là 1.758,9 triệu USD và được chia làm hai giai đoạn thực hiện. Trong đó, dự kiến
kinh phí đầu tư cho lễ Sen Dolta và hội Đua bò là 10 triệu USD thực hiện giai
đoạn 2011 – 2015; lễ Ok Om Bok với hội Đua ghe ngo cũng có nguồn kinh phí đầu
tư và thời gian thực hiện tương tự (Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch, 2010).
7. Một số kiến nghị về khai thác lễ hội dân gian nhằm phát
triển du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long
- Một trong những nhân tố góp phần tạo nên sự thành công
trong hoạt động kinh doanh du lịch là yếu tố con người. Đối với vùng đồng bằng
sông Cửu Long, nguồn nhân lực du lịch hiện còn “mỏng” về số lượng và chất lượng
cũng còn thấp.
- Yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay cho Vùng là cần đào tạo
đội ngũ lao động theo hướng nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ, đồng thời
bổ sung thêm nhân sự cho ngành.
- Cần chú ý tuyển dụng và đào tạo đội ngũ lao động du lịch tại
các điểm du lịch nói chung, các điểm du lịch gắn với lễ hội nói riêng những người
địa phương nhằm tạo công ăn việc làm cho họ và đảm bảo công tác thuyết minh, hướng
dẫn cho du khách được tốt hơn.
- Phải tiếp tục xây dựng, mở rộng mạng lưới đường giao thông
để tiện cho việc tiếp cận điểm đến của du khách và việc tổ chức lễ hội được tiện
lợi. Vào mùa lễ hội nên khai thác nhà ở của dân để phục vụ nhu cầu lưu trú của
khách, nhưng phải đảm bảo an toàn và vệ sinh. Cho du khách có cơ hội tiếp cận để
tìm hiểu văn hóa, lối sống của người dân đồng thời được thưởng thức các món ăn
dân tộc.
- Cần xây dựng mô hình du lịch cộng đồng người Khmer nhằm kết
hợp khai thác văn hóa dân tộc với lễ hội dân gian hiệu quả hơn. Trong thời gian
diễn ra lễ hội, ở phần trò chơi dân gian có thể cho du khách cùng tham gia nhằm
tạo sự phấn khởi và để lại kỷ niệm về chuyến đi trong lòng du khách.
- Tăng cường đội ngũ cán bộ để bảo vệ, tuần tra nhằm đảm bảo
an toàn và an ninh cho du khách, đồng thời kiểm soát các hoạt động có khuynh hướng
mê tín dị đoan trong dịp diễn ra lễ hội. Tiến hành phân luồng giao thông để
tránh tình trạng ùn tắc giao thông, tai nạn có thể xảy ra vào những ngày chính
lễ. Thanh tra, kiểm tra để tránh tình trạng tăng giá vào mùa lễ hội.
- Xây dựng băng đĩa ghi lại nội dung về hoạt động lễ hội nhằm
quảng bá và giới thiệu đến du khách; trên các hàng lưu niệm cần khắc tên địa điểm
diễn ra lễ hội và lấy biểu tượng, hình ảnh liên quan đến lễ hội làm dấu tích.
- Giới thiệu thời gian, địa điểm diễn ra lễ hội trên các
phương tiện thông tin đại chúng, các sách hướng dẫn, tờ rơi, tờ bướm, v.v, để
du khách có thể tham gia lễ hội được dễ dàng, tiện lợi. Cần tiến hành thống kê
hoạt động du lịch lễ hội dân gian Vùng.
- Giáo dục người dân ý thức trong việc bảo vệ môi trường, đồng
thời trang bị các dụng cụ chứa đựng rác và nhắc nhở du khách giữ gìn vệ sinh
môi trường nơi diễn ra lễ hội.
Tóm lại, lễ hội dân gian được coi là “bảo tàng sống” chứa đựng
các giá trị văn hóa - lịch sử phong phú của từng dân tộc, đã trở thành một nhu
cầu sinh hoạt văn hóa không thể thiếu trong đời sống của đồng bào các dân tộc.
Lễ hội dân gian chính là kho tàng di sản văn hóa vô giá nên cần được giữ gìn và
phát triển.
Nguồn: ResearchGate