Mỗi độ tháng Hai và tháng Ba, khi hoa cà phê nở trắng, bồng bềnh trên nương rẫy, hoa pơlang đỏ thắm rực rỡ giữa ngàn xanh, những con ong chăm chỉ đi lấy mật… thì cũng là lúc ngày Xuân vui tươi gõ cửa từng thôn bản của đồng bào các dân tộc Chu Ru, Cil, Cơ Ho… Khắp các bản làng, thôn xóm sẽ rạo rực vì mùa cưới, mùa “bắt chồng” của những thiếu nữ đến tuổi cập kê.
Srí - tín vật huyền bí gắn kết lứa đôi
Sắc màu tràn đầy sức sống bừng thức khắp nơi như báo hiệu
một mùa lễ hội bắt chồng rộn ràng nhộn nhịp của đồng bào các
dân tộc Tây Nguyên. Và tín vật không thể thiếu
trong lễ “bắt chồng” này chính là cặp nhẫn cưới
Srí.
Cặp nhẫn Srí
|
Đối với người Kinh, cặp nhẫn cưới thường là nhẫn vàng, còn
đối với người Chu Ru, Cơ Ho… theo tục truyền của ông bà để lại
bao đời nay, cặp nhẫn cưới làm từ nguyên liệu chính là
bạc và sáp ong. Chiếc nhẫn bạc Srí không chỉ là
vật trang sức, của hồi môn mà còn là tín vật mang
sức mạnh huyền bí, kết nối hai con người lại với nhau như một quy ước, một
lời thề hẹn ngầm cho hạnh phúc gia đình khi người con gái đã “bắt”
được chàng trai mình yêu thương.
Để tạo ra được một cặp nhẫn cưới hoàn hảo cho các cô gái
đi “bắt chồng”, người nghệ nhân phải trải qua nhiều công
đoạn tỉ mỉ như: lấy củi, nấu sáp, làm hoa văn cho nhẫn, tạo khuôn,
nấu bạc, đánh bóng nhẫn… Đầu tiên, người nghệ nhân
lấy sáp ong nấu chảy, trộn phân trâu rồi dùng que gỗ tròn
bằng ngón tay nhúng vào, chờ khô rút que gỗ ra,
sáp ong và phân trâu khô quánh thành
những ống tròn, nghệ nhân cắt thành những khuyên nhỏ làm
khuôn đúc nhẫn. Bạc sau khi được đun nóng sẽ đổ vào khuôn,
trước sức nóng của bạc mới nấu, sáp ong và phân trâu
sẽ bết chặt tạo thành một lớp men bên ngoài nhẫn. Khuôn
đúc nhẫn có hai loại: Loại nhỏ để đúc nhẫn mái cho người
phụ nữ; loại to đúc nhẫn trống dành cho người con trai.
Người dân Tây Nguyên luôn xem cây Kơ-nia là
biểu trưng cho sự bền vững, thủy chung. Bởi vậy trong quá trình đánh
bóng và chạm trổ, nghệ nhân dùng nước bồ kết hoặc nước
lá cây Kơ-nia đun sôi để rửa và gửi gắm ước vọng về một
mùa xuân vĩnh hằng và chiếc nhẫn trống (Srí Lơ Hây)
mà các cô gái dùng để làm tín vật “bắt
chồng” cũng được gắn hạt cây Kơ-nia trên mặt nhẫn.
Người dân tộc Chu Ru rất tin vào yếu tố tâm linh của chiếc
nhẫn cưới, vì thế mỗi nghệ nhân đều phải tuân thủ chặt chẽ các
nguyên tắc chế tác mà cha ông truyền lại. Đêm trước
khi bắt tay vào đúc nhẫn, người thợ phải tắm rửa sạch sẽ bằng nước
một loại lá thơm hái trong rừng, đồng thời phải cách ly, không
được gần gũi vợ. Chiếc nhẫn chỉ được làm trong thời gian từ 4-8 giờ sáng
vì đây là giờ đẹp, giờ thiêng cho sự gắn kết lứa đôi.
Trừ bạc và sáp ong có thể mua ở cửa hàng (trước đây
sáp ong thường lấy từ rừng), những nguyên liệu còn lại như phân
trâu (phải là phân của con trâu đực 3 tuổi), đất sét,
lá dứa hay củi được mang về từ rừng xanh. Việc chế tác nhẫn hoàn
toàn thủ công, bộ đồ nghề duy nhất sử dụng bằng gỗ và đây
là bộ đồ nghề mẫu hệ được các đời trước truyền lại.
Từ đôi bàn tay khéo léo của người nghệ nhân
kết hợp với bí quyết tục truyền của dòng tộc, các cặp nhẫn
cưới Srí khi được tạo thành mang một dấu ấn rất riêng của người
Chu Ru. Chiếc nhẫn như sợi dây tơ hồng gắn kết chặt chẽ người con gái
và người con trai, buộc chặt hôn nhân hai người họ, hướng về
một gia đình hạnh phúc trong tương lai.
Tái hiện Lễ bắt chồng của các cô gái
dân tộc Churu
|
Độc đáo đêm hội bắt chồng
Bắt đầu từ Mùng Một Tết Âm lịch cho đến hết tháng Ba, mùa
bắt chồng của các thiếu nữ dân tộc Chu Ru, Cil, Cơ Ho… ở Lâm
Đồng nói riêng và Tây Nguyên nói chung diễn
ra trong không khí vui tươi, nhộn nhịp.
Như nét văn hóa độc đáo được truyền từ bao đời nay, lễ bắt
chồng thường thực hiện vào ban đêm. Khi ưng ý một chàng
trai nào đó, cô gái về thông báo cho gia
đình và dòng họ biết. Trong ba tháng mùa Xuân,
gia đình nhà gái chọn ngày mang hoa quả đến nhà
trai nói chuyện dạm hỏi. Nếu cả hai dòng họ đồng ý, cô
gái sẽ đến đeo nhẫn vào tay người con trai trong đêm đẹp trời.
Sở dĩ lễ bắt chồng thường diễn ra lúc ban đêm bởi có một số
trường hợp đi hỏi bị từ chối, việc dạm hỏi được tổ chức vào buổi tối để nhà
gái không cảm thấy xấu hổ, đồng thời cũng thể hiện được lòng
tự trọng của họ. Trường hợp người con trai không thích có thể
tháo nhẫn trả lại, nhưng 7 ngày sau, cô gái lại chọn
một đêm đẹp trời đến đeo nhẫn cho chàng trai và cứ thế lặp đi,
lặp lại cho đến khi nào chàng trai thương và chấp nhận thì
đám cưới diễn ra.
Khi cả hai bên đã thuận tình, nhà gái sẽ chuẩn
bị đầy đủ lễ vật để chuẩn bị cho ngày đón rể. Nhà trai chủ
động đưa ra yêu cầu về lễ vật dẫn cưới và được hai bên cùng
chấp nhận. Ngoài nhẫn, hạt cườm và các lễ vật khác,
còn có thêm khăn trắng và khăn xanh. Khăn trắng để dành
cho đàn ông; khăn xanh để dành cho các cô, các
bà, các chị; nhiều ít do nhà trai thách, nhà
trai thách bao nhiêu quà thì nhà gái phải
đáp ứng đầy đủ mới cưới được chồng.
Trước khi cưới một ngày, buôn làng tổ chức đêm hội
gọi là “Đêm bắt chồng”. Sau màn dặn dò và
chia của hồi môn, mẹ cô gái choàng, thắt khăn cột đôi
bạn trẻ lại với nhau. Việc trùm khăn lên cô dâu chú
rể là một nghi thức quan trọng cầu cho lứa đôi hạnh phúc, luôn
sát cánh bên nhau trong hạnh phúc cũng như hoạn nạn.
Cũng trong đêm này, chàng trai và cô gái
cần đọc một số câu luật tục riêng của đồng bào mình, trong
đó có những câu độc đáo như: “Tìm vợ, tìm
chồng phải hỏi mẹ cha; ăn ruộng, ăn rẫy phải hỏi tai con trâu, con bò;
làm bẫy phải hỏi thần núi; về với vợ như về với nước...”. Ngày
cưới chàng trai và cô gái rút nhẫn ra hôn
nhẫn và đeo lại cho nhau. Người thân, dân làng sẽ tổ chức
màn đấu chiêng, cùng nhau uống rượu và múa hát
với mong muốn mọi sự mâu thuẫn, bất đồng giữa hai họ sẽ được bỏ qua và
chung vui chúc mừng cho cặp vợ chồng mới cưới.
Sau lễ cưới 7 ngày, cô gái tháo nhẫn đưa mẹ chồng
cất giữ và ngược lại nhẫn chàng trai do mẹ cô gái cất
giữ. Theo tục lệ, chàng trai sẽ ở rể và hai bên dòng
họ thử thách tình yêu của đôi vợ chồng trong năm đầu tiên.
Một năm sau, bên đằng trai cho vốn bên nhà con trai của người
ta, nhà có trâu cho trâu, có gì cho nấy
như quần áo, tô chén. Sau đó bên đằng gái
cho vốn hai vợ chồng rồi hỏi hai vợ chồng muốn ăn riêng hay ở chung với bố
mẹ. Nhưng dù ở chung hay ở riêng thì đôi vợ chồng vẫn
luôn cố gắng yêu thương chăm sóc lẫn nhau, giữ trọn đạo hiếu
với dòng họ và cha mẹ hai bên.
Lễ hội bắt chồng của người Chu Ru, Cil, Cơ Ho… hiện vẫn còn được
lưu giữ ở nhiều bản làng Tây Nguyên, tạo thêm nét
độc đáo hấp dẫn trên vùng đất với nhiều huyền thoại của núi
rừng. Rồi mỗi mùa Xuân về, khi hoa đua sắc, ong bướm bay rập rờn, trời
đất tràn đầy sức sống, trái tim những thiếu nữ Chu Ru, Cil, Cơ Ho…
lại bồi hồi, rạo rực, chờ đợi giây phút được lồng chiếc nhẫn vào
ngón tay người mình thương nhớ. Con người cùng hòa với
đất trời chìm đắm trong men say của hạnh phúc lứa đôi.