Đền Khánh Xuân, Đại Phu, xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, Hà Nội thờ phụng Đức Tản Viên Sơn Thánh. Ở đây nổi tiếng với tục Hát Dô lưu truyền từ xưa.
Hát Dô là một loại hình diễn xướng dân gian đặc sắc, phát
tích ở vùng đất Lạp Hạ ven sông Tích, nay là xã Liệp Tuyết (Quốc Oai, Hà Nội) gắn
với lễ hội đền Khánh Xuân (còn gọi là hội hát Dô), nơi thờ phụng Đức Thánh Tản
Viên.
Tương truyền, Đức Thánh Tản ngao du qua nhiều vùng ven sông
Tích, từ Sơn Tây, qua Thạch Thất và về đến mảnh đất Lạp Hạ - xã Liệp Tuyết (Quốc
Oai) ngày nay, Ngài thấy ruộng đất phì nhiêu nhưng dân cư thưa thớt, chưa biết
làm nông nghiệp, bèn gọi dân làng đến dạy cho cấy cày.
Đức Thánh Tản xuống ruộng làm trước, mọi người làm theo sau
rồi ngài đi nơi khác. Nhưng mãi tới 36 năm sau, Ngài mới quay trở lại. Thấy dân
giàu có, thóc lúa đầy nhà, Ngài tập hợp nam thanh nữ tú trong làng đến để dạy
múa hát, mở hội mừng dân no ấm được mùa, và đó chính là điệu hát Dô ngày nay.
Hết hội, Ngài lại ra đi, dân làng lập đền thờ Ngài ở một mảnh
đất gò cao có tên Khánh Xuân, thuộc thôn Đại Phu, xã Liệp Tuyết ngày nay, cứ 36
năm mới mở hội múa hát một lần, gọi là hội hát Dô. Hội hát Dô được mở lần cuối
cùng vào năm 1926.
Một tích khác kể: tương truyền Tản Viên Sơn Thánh đã có lần
qua vùng đất Lạp Hạ nay là xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai) thấy phong cảnh tươi
đẹp, con trai con gái có tiếng hát réo rắt, thanh kỳ bèn dừng lại chơi. Khi ấy,
ở dưới đồng ruộng trai gái Lạp Hạ vừa cày cấy vừa hát ví von trêu ghẹo nhau. Đức
Thánh Tản thấy vậy bèn cho xây dựng Xuân Ca cung, tức đền Khánh Xuân, và gọi
đám trai gái đến dạy họ hát múa...
Đền còn lưu giữ nhiều tư liệu cổ, nhất là cuốn Ngọc Phả về Tản
Viên Sơn Thánh.
Hơn 30 năm, kể từ khi Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Lan gây dựng
lại, câu Hát Dô nhận được nhiều sự quan tâm, đầu tư, hỗ trợ phục dựng, bảo tồn
của tỉnh Hà Tây cũ và của thành phố Hà Nội hiện nay, cũng như một số tổ chức,
đoàn thể.
Bữa đầu khi vừa gặp tôi bà Nguyễn Thị Lan đã hào hứng khoe
“Vụ lúa tháng Mười năm 1989, lần đầu tiên sau nửa thế kỷ “nằm im” những câu
hát, điệu Hát Dô được trình diễn giới thiệu ngay tại Đền Khánh Xuân, ngôi đền
những năm xa xưa thường tổ chức lễ hội và hát điệu Hát Dô của người Liệp Tuyết.
Sau thành công đó thay vì phải chờ đợi tới 36 năm như “giao
ước” người dân Liệp Tuyết được nghe và được hát những câu hát Dô thường xuyên
hơn. Cũng từ đấy, mỗi độ Xuân về (diễn ra từ 10 đến rằm tháng Giêng) làng lại mở
hội và Đền Khánh Xuân đã trở thành “địa chỉ sinh hoạt văn hóa” của làng.
Đền Khánh Xuân (xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, Hà Nội) được
xây dựng từ rất lâu đời và mới được trùng tu. Một ngôi đền như mọi ngôi đền
nhưng lại khác tất cả các ngôi đền, thế mới lạ. Đền ở ngay đầu làng, hơi cách
biệt với những nếp nhà dân giã, lại xung quanh đền là những cây muỗm cổ thụ
xanh rì, nên khi đêm xuống ta có cảm tường như Đền Khánh Xuân đang trầm ngâm dưới
ánh trăng.
Kiến trúc của Đền Khánh Xuân không giống như các ngôi đền thờ
thần thờ thánh thường thấy, đền có dáng dấp của một ngôi đình làng bởi trước đền
là một lối cổng cao lớn, sân đền đủ rộng để làng làm lễ hội, đền có hai nhà,
nhà trước gọi là nhà tiền, rộng rãi là nơi dân làng tiến hành ca hát, sau đó mới
tới nhà sau gọi là nhà hậu, là nơi đặt điện thờ.
Một ngôi đền để thờ Đức Thánh Tản Viên Sơn nhưng lại hàm chứa
một “sân khấu nghệ thuật” dân gian đặc sắc và độc nhất nhưng những buổi diễn ca
lại không hề làm thuyên giảm sự tôn nghiêm của nơi thờ cúng. Vào dịp lễ hội dân
trong vùng cùng khách thập phương tụ về rất đông, cảnh tượng tưng bừng, rực rỡ
như câu ca được chép lại “Sáp thắp chan chan/ Sân đền tán tía lọng xanh/ Triều
thần văn võ bá quan/ Ngựa xe võng giá/ Rước về Lạp Hạ/ Đóng đám Khánh Xuân”.
Tôi bước vào trong đền, không gian chợt bừng lên ấm áp. Ngay
chính giữa nhà tiền của đền thấy rất đông đang ngồi súm sít. Nghệ nhân ưu tú
Nguyễn Thị Lan mời tôi tới ngồi xuống chiếu. Thì ra đêm nay, đêm cuối năm giá
rét, các thành viên của Câu lạc bộ Hát Dô Liệp Tuyết đang cùng nhau ôn bài hát
cũ đồng thời luyện những câu hát mới.
Đưa tôi miếng trầu bà Lan cười “Nhà báo ăn miếng trầu này
cho ấm”. Tôi giả bộ nhăn mặt nói vui “Liệu có bị nỡm như hồi Đức Thánh Tản Viên
giả trang không đấy?”. Bà Lan cười xua tay “Thì nhà báo cứ ăn đi rồi biết”.
Số là dạo xửa dạo xưa, Đức Thánh Tản Viên một lần về đây
trong bộ dạng của một trai thôn, Ngài thấy mấy cô thôn nữ đang mò của bắt ốc
thì lại gần “ghẹo mặt” các cô thôn nữ đáo để mời Ngài xơi trầu nhưng thay vì bỏ
vôi thì các cô lại lén nhặt phân cò thay thế. Đức Thánh Tản Viên vừa nhai đã
nhăn mặt nhè vội miếng trầu. Các cô thôn nữ cười khúc khích. Biết mình bị nỡm
nhưng Đức Thánh Tản Viên không giận. Ngài hỏi các cô có biết là ai không rồi thấy
thoảng một làn gió mát, Ngài đã đi mất”. Nhớ lại chuyện xưa tôi thấy mặt mũi bừng
bừng hơi ấm. Ghé tai bà Lan tôi hỏi nhỏ “Chắc là đang chuẩn bị cho hội?”. Bà
Lan trả lời luôn “Vâng. Phần chuẩn bị cho lễ hội đầu xuân và phần cũng là buổi
sinh hoạt thường kỳ hàng tháng”.
Nhìn quang cảnh trẻ có, già có, học sinh phổ thông có, người
lao động có, tất cả đang say sưa cùng nhau luyện hát tôi chạnh nhớ tới những
“tháng ngày thăng trầm”. Đó là thời điểm bà Nguyễn Thị Lan phải bao “vất vả”.
Với quyết tâm tìm lại “ngọc quý từ trong huyền tích” của quê
nhà, cô Lan đã dũng cảm “bước qua lời nguyền”. Đến năm 1998, Câu lạc bộ Hát Dô
của xã Liệp Tuyết chính thức được thành lập với mục đích gìn giữ và bảo tồn nghệ
thuật Hát Dô của quê hương, đồng thời mở ra hướng đi bền vững, đó là tiến hành
sưu tầm các làn điệu cổ, tổ chức các lớp truyền dạy Hát Dô cho thanh thiếu
niên.
Vậy mà vẫn phải mất thêm hơn 4 năm ròng rã nữa, lớp học của
Câu lạc bộ Hát Dô Liệp Tuyết mới thực sự đi vào ổn định, nền nếp. Các cháu nhỏ
đến lớp với tâm lý thoải mái không e ngại “lời nguyền độc”, phụ huynh các em
cũng rất vui vì con cái có được không gian văn hóa lành mạnh để sinh hoạt.
Đến nay, lớp học vẫn được duy trì đều đặn hàng tháng với số
lượng trên 20 cháu một lần dự học, nâng tổng số các cháu được học Hát Dô (từ
năm 1998 đến nay) lên con số 768 học viên. Nghệ nhân Nguyễn Thị Lan đã có thể
vui mừng vì thành quả xây đắp của mình, bởi hiện không ít học trò của bà đang
trở thành những “ngọn lửa tiếp nối”, mạnh dạn bước đi trên hành trình gìn giữ,
bảo tồn và phát huy giá trị của nghệ thuật hát Dô.
Theo thần tích thì Đền Khánh Xuân được xây dựng trên một gò
đất nổi lên giữa bao la trắng nước. Gò đất ấy như một hòn đảo tạo nên cảnh sắc
thơ mộng sơn thủy hữu tình. Huyền tích kể lại rằng: Khi trở lại vào một ngày
xuân sau 36 năm xa vắng, Đức Thánh Tản Viên đã chọn gò đất cao ráo này để dạy
người dân ca hát.
Ban đầu được gọi là “Xuân cung ca” với ý nghĩa là “Nơi ca
hát vào mùa xuân”. Để tỏ lòng tri ân Thần Tản Viên truyền dạy nghề trồng lúa nước
mà đời sống được no đủ, làng xóm ấm êm nên để ghi công Ngài sau này người dân
trong vùng đã lập nên Đền thờ Ngài ở ngay chính nơi Ngài cùng dân làng ca hát.
Cái tên “Khánh Xuân” như để nói lên vùng đất này luôn vang tiếng chuông tiếng
khánh ngân đón xuân nồng. Cái tên “Khánh Xuân” như một lời tri ân vọng mãi.
Từ đó, cứ 36 năm vào dịp đầu xuân dân làng lại tổ chức lễ hội.
Vào ngày mở lễ người dân khắp các làng trong vùng Lạp Hạ xưa, xã Liệp Tuyết và
xã Ngọc Liệp hiện nay, lại tiến hành rước kiệu nghênh Ngài vào đền tế lễ. Lễ tế
xong thì tiến hành múa hát. Những lời ca điệu múa đều quy về bầy tỏ chuyện sinh
hoạt, chuyện làm ăn, chuyện tri ân công đức người xưa. Có thể nói “Điệu Hát Dô
chính là điệu hát thờ Đức Tản Viên Sơn Thánh”.
Có điều sau khi dậy cho dân làng nghề cấy lúa nước và truyền
cho dân làng câu hát thì Đức Thánh Tản Viên lại hẹn rằng “36 năm nữa ta sẽ quay
lại”. Không ngờ “lời hẹn” của Ngài lại trở thành “lời nguyền” của dân làng.
Vì tôn kính Ngài nên trong suốt thời gian 36 năm chờ đợi
Ngài quay lại ấy dân làng đã “nín lặng” câu hát. Ai mà “dám” hát thì sẽ bị tai
họa. Chẳng hay hư thực nhưng “lời nguyền” ấy đã khiến những câu hát chẳng một
ai dám hát. Thời gian phôi pha, câu hát người nhớ, người còn, dần dần chìm vào
quên lãng.
Năm 1982, đại đội phó Nguyễn Xuân Kham hy sinh tại mặt trận
Phong Thổ, Lai Châu, để lại người vợ trẻ mới 27 tuổi cùng hai cô con gái nhỏ. Gắng
gượng vượt qua nỗi đau cùng bao vất vả chốn quê nhà, cô Nguyễn Thị Lan vừa nuôi
con vừa tích cực tham gia công tác xã hội ở thôn ở xã. Cô phấn đấu trở thành đảng
viên như một lời hứa với người chồng đã mất.
Vào đúng năm 1989, năm cô Nguyễn Thị Lan được tín nhiệm bầu
giữ chức Chủ tịch Hội phụ nữ xã, thì cũng có một “bước ngoặt” đến với người dân
xã Liệp Tuyết. Năm ấy Trung tâm Văn hóa tỉnh Hà Tây cử cán bộ về xã nhà để tìm
tư liệu về nghệ thuật hát Dô, một lối hát riêng có của làng, khi đó tưởng chừng
như đã “thất truyền” bởi thời gian, bởi thời thế. Tin vui chợt đến làm vị chủ tịch
phụ nữ xã mừng lắm, cô Lan gặp người cán bộ văn hóa tỉnh rồi xăng xái dẫn đi
thăm làng.
Chính bởi thái độ nhiệt tình ấy mà cô Lan được chỉ định làm
người đảm trách việc tìm tòi, sưu tầm, thu thập những làn điệu hát. Cô Lan tìm
đến những những vị cao niên trong làng đã tham dự lễ hội hát Dô năm 1926 như
các cụ Tạ Văn Lại, Kiều Thị Nhuận, Đàm Thị Điều…để nài nỉ các cụ “truyền lại”,
một việc làm cực khó vào thời điểm ấy.
Cũng là do “Bởi thời thế nên đành phải thế” mà lâu rồi người
dân Liệp Tuyết không làm lễ hội, điệu hát Dô cũng không được người dân đem ra
hát múa. Những tưởng “bước ngoặt năm 1989” sẽ “khai thông” cho câu hát Dô nhưng
những “rào cản” những mặc cảm, cùng những khuất lấp đã tưởng chừng việc khôi phục
điệu hát cùng lề lối của câu hát Dô không thực hiện được như mong muốn. “Vì sao
lại vậy?” tôi sốt ruột hỏi chen vào câu chuyện.
Bà Lan thật thà “Vào thời điểm đó, có một số cháu theo em học
hát Dô rồi lại xin thôi vì bị gia đình ngăn cấm, hoặc bị bạn bè “dọa nạt”. Em lại
phải “lặn lội” đến từng gia đình để tuyên truyền, để thuyết phục các bậc phụ
huynh đồng ý cho cháu nhỏ tham gia học hát Dô”.
Được biết đó cũng là khoảng thời gian khó khăn, khi đó cô
Lan thường xuyên phải nghe những lời gièm pha, dị nghị về việc làm mà với nhiều
người dân xã Liệp Tuyết khi đó cho là “xúc phạm thánh thần” của mình. Thậm chí,
không ít kẻ xấu còn tung tin bà bị “ma làm”.
Tiếng phách tre lách cách. Từng nhịp múa rộn ràng. “Sân khấu
dân gian” Đền Khánh Xuân đêm cuối năm vang lên giọng thanh nữ rủ rê “Bạn nàng
ta/ Hỡi bạn nàng ta/ Nào mở quạt ra/ Múa cho mềm mại…”. Tôi đã nhận ra “Câu Hát
Dô đùng là “cái hồn” của người dân Liệp Tuyết”. Và cái để “còn” đó chính là
tình yêu quê hương làng xóm, tình người sâu đậm và một tấm lòng biết trân quý
những giá trị văn hóa dân gian.
Chỉ tay vào đám học trò đang ngồi túm tụp trong gian trước của
đền Khánh Xuân, bà Lan cười rất vui “Mới hồi nào các cháu theo học hát Dô còn gọi
tôi là cô là bác. Đến lứa này thì chúng nó đều gọi là bà. Mình già rồi nhưng thấy
yên tâm bởi các cháu còn mê hát Dô, còn học hát Dô”.
Tôi cũng cười góp vui “Tối nay thấy học đông người, mà hầu
như đều là thanh thiếu niên”. Nghệ nhân ưu tú Nguyễn Thị Lan (Năm 2015 bà Lan
được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ký tặng Danh hiệu Nghệ nhân ưu tú) quyệt tay
lau vết trầu vương “Tối nay bên cạnh luyện hát các bài thuộc loại “giáo trình”
ra em còn cho các cháu tập bài hát mới”.
“Bài hát mới” tôi khẽ reo, thế là hát Dô không chỉ được phục
hồi nguyên gốc mà còn có những lời ca mới phù hợp với nội dung phát triển kinh
tế xã hội của địa phương”.
Tôi phấn khởi gặng hỏi thêm “Vậy lời hát mới đó thế nào?”.
Bà Lan ngừng vài giây rồi thong thả hát “Khúc hát vang xa/ Hội Dô khúc hát vang
xa/ Câu thơ là thơ một nửa/ Em còn là còn thương anh…./ Yêu ai giọng hát ân
tình/ Để cho là cho trai gái/ Sân đình là đình giao duyên…”. Các bác biết
không? Lời ca mới này em chuyển soạn từ một bài thơ của bác Kiều Văn Huấn. Bác
Huấn tuy xa quê sinh sống tận Vũng Tàu nhưng rảnh ra là hỏi han thăm quê, rảnh
ra là viết thơ tặng quê nhà. Có những bài thơ mới viết phù hợp với lề lối hát
Dô, phù hợp với công tác xây dựng quê hương là em chuyển soạn ngay”. Tôi nói
thêm “Sáng nay khi làm việc với xã tôi thấy các anh lãnh đạo xã khen chị nhiều
lắm. Đúng là “Tìm lại được ngọc rồi vẫn phải năng mài thì ngọc mới sáng”.
Câu lạc bộ Hát Dô Liệp Tuyết đã đi biểu diễn nhiều nơi như:
Nhà hát lớn Hà Nội, Văn phòng Quốc hội, khu du lịch Sầm Sơn. Cùng các khách lớn
ở Thủ đô như: Khách sạn La Thành, Khách sạn Daewoo và sang tận Malaixia…. Những
lần biểu diễn đó đã để lại những dư âm cùng nhiều lời ngợi khen. Hát Dô Liệp
Tuyết đã tham dự các lần Hội diễn văn nghệ quần chúng của thành phố cũng đạt
nhiều Huy chương vàng, huy chương bạc cùng nhiều bằng, giấy khen.