Phù Cừ vừa chinh phục thiên nhiên vừa đánh giặc ngoại xâm. Từ thời An Dương Vương lập nghiệp xây thành Cổ Loa cho đến thời nhị vua Bà Trưng và các triều đại phong kiến sau này, nhân dân Phù Cừ đều góp phần làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử và ba lần chiến thắng Nguyên - Mông thời Trần.
Huyện Phù Cừ nằm ở phía đông nam tỉnh Hưng Yên. Huyện có vị
trí địa lí quan trọng: phía bắc giáp huyện Ân Thi, phía nam giáp huyện Hưng Hà
(Thái Bình), phía đông giáp huyện Thanh Miện (Hải Dương), phía tây giáp huyện
Tiên Lữ. Huyện nằm trên đầu mối giao thông quan trọng của giao điểm quốc lộ 38B
và đường 202 đến các địa phương trong và ngoài tỉnh[1], thuận tiện trong việc
giao lưu phát triển kinh tế văn hoá, xã hội với các địa phương trong vùng đồng
bằng sông Hồng và vùng đông bắc của Tổ Quốc.
Huyện Phù Cừ nằm ở phía đông nam tỉnh Hưng Yên. Huyện có vị
trí địa lí quan trọng: phía bắc giáp huyện Ân Thi, phía nam giáp huyện Hưng Hà
(Thái Bình), phía đông giáp huyện Thanh Miện (Hải Dương), phía tây giáp huyện
Tiên Lữ. Huyện nằm trên đầu mối giao thông quan trọng của giao điểm quốc lộ 38B
và đường 202 đến các địa phương trong và ngoài tỉnh[1], thuận tiện trong việc
giao lưu phát triển kinh tế văn hoá, xã hội với các địa phương trong vùng đồng
bằng sông Hồng và vùng đông bắc của Tổ quốc.
Trong lịch sử, địa danh và phạm vi hành chính của huyện có
nhiều lần thay đổi. Theo tư liệu lịch sử và một số thư tịch cổ khác cho biết, mảnh
đất thuộc huyện Phù Cừ ngày nay có lịch sử định cư khá sớm.
Đầu công nguyên, mảnh đất này thuộc huyện Cửu Diên quận Giao
Chỉ. Thời Tiền Lê đổi đạo thành lộ, dưới lộ là phủ, dưới phủ là hương, địa bàn
của huyện thuộc Khoái Lộ. Sau đó, lại đổi lộ thành châu nên vẫn thuộc Khoái
Châu. Vào năm Nhâm Dần ( 1252 ), cả nước có 12 phủ, dưới phủ là huyện, lúc đó mảnh
đất này đã có tên gọi là huyện Phù Dung thuộc phủ Khoái Châu.
Khi nhà Mạc lên ngôi, kiêng tên húy của Mạc Thái Tổ (tức Mạc
Đăng Dung), đổi tên thành huyện Phù Hoa. Đến thời Lê Trung Hưng lấy lại tên cũ
là Phù Dung. Năm Cảnh Hưng thứ 2 ( 1741 ) Lê Hiển Tông đổi đạo thành trấn (có
thượng trấn và hạ trấn) huyện Phù Dung thuộc phủ Khoái Châu của Sơn Nam thượng
trấn.
Đến năm Minh Mệnh thứ 12 ( 1831 ), tỉnh Hưng Yên được thành
lập gồm có phủ Khoái Châu và phủ Tiên Hưng, từ đó huyện Phù Dung là 1 trong 8
huyện của tỉnh Hưng Yên. Đến năm Thiệu Trị thứ 2 ( 1842 ) huyện Phù Dung đổi
tên là huyện Phù Cừ. Năm Tự Đức thứ 4 ( 1858 ), huyện Phù Cừ từ phủ Khoái Châu
chuyển về phủ Tiên Hưng trong tỉnh.
Năm 1890, khi thành lập tỉnh Thái Bình, huyện Thần Khê chuyển
về tỉnh Thái Bình, phủ Tiên Hưng còn lại 4 huyện là Phù Cừ, Tiên Lữ, Duyên Hà
và Hưng Nhân. Năm Thành Thái thứ 6 (1894), chuyển huyện Phù Cừ và Tiên Lữ về phủ
Khoái Châu, phủ Tiên Hưng còn lại hai huyện Duyên Hà và Hưng Nhân nhập vào tỉnh
Thái Bình.
Năm 1947, huyện Văn Giang của Bắc Ninh chuyển về tỉnh Hưng
Yên cho đến trước khi hợp nhất tỉnh (tháng 01-1968), huyện Phù Cừ là 1 trong 9
huyện của Tỉnh Hưng Yên.
Ngày 26 - 01 - 1968, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra Quyết định
số 504-NQ/TVQH, hai tỉnh Hưng Yên và Hải Dương hợp nhất, huyện Phù Cừ nằm trong
địa bàn của tỉnh Hải Hưng.
Ngày 11 - 3 – 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số
58-CP, huyện Phù Cừ hợp nhất với huyện Tiên Lữ thành huyện Phù Tiên và là 1
trong 12 huyện, thị của tỉnh Hải Hưng.
Ngày 06 - 11 - 1996, Kỳ họp thứ 10 - Quốc hội khóa IX đã phê
chuẩn chia tách tỉnh Hải Hưng thành 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên theo địa giới
hành chính trước khi hợp nhất. Ngày 01 - 01 – 1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập.
Thực hiện Nghị định số 17-CP, ngày 24 - 02 - 1997 của Chính
phủ về việc chia tách huyện Phù Tiên thành 2 huyện Tiên Lữ và Phù Cừ theo địa
giới hành chính cũ. Căn cứ Nghị quyết của Ban chấp hành Đảng bộ huyện Phù Tiên
ngày 12 - 3 - 1997 và Quyết định số 70-QĐ/TU ngày 16 - 4 - 1997 của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy Hưng Yên về việc thành lập Đảng bộ huyện Phù Cừ. Ngày 01 - 5 - 1997
huyện Phù Cừ chính thức tái lập đi vào hoạt động. Ngày 02 - 5 - 1997, huyện Phù
Cừ trọng thể tổ chức lễ tái lập huyện sau 20 năm hợp nhất.
Sự kiện này có ý nghĩa lịch sử vô cùng trọng đại đối với Đảng
bộ và nhân dân Phù Cừ trong sự nghiệp đổi mới nhằm phát huy nhân lực – trí lực
– tài lực và truyền thống vẻ vang để làm giàu đẹp quê hương trên bước đường
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Huyện lỵ ngày nay là khu vực thị tứ Trần Cao, trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của huyện, nằm trên đầu mối giao thông
quan trọng của giao điểm quốc lộ 39B và đường 202 đến các địa phương trong và
ngoài tỉnh được thuận tiện[2].
Huyện Phù Cừ có hình thể tựa như lá cờ Tổ quốc đang tung bay
trong gió, với diện tích tự nhiên là 9.127,19 ha, trong đó có 6.155,78 ha là đất
canh tác.
Qua mỗi giai đoạn lịch sử, đơn vị hành chính cấp cơ sở trong
huyện có sự thay đổi. Trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, huyện có 56 xã (tức
56 làng bằng 60 thôn) được phân giới thành 6 tổng để quản lý các xã (tức làng -
nên xuất hiện cụm từ Làng - Xã). Còn thôn chỉ là điểm tụ cư nằm trong làng.
1- Tổng Hoàng Tranh có 13 xã (13 làng bằng 15 thôn: Xã Quế
Lâm, xã Ngọc Tranh, xã Trúc Giản, xã Hoàng Tranh (có nhị thôn là Phương thôn và
Viên thôn), xã Ải Quan, xã Đại Duy, xã Khả Duy, xã Đông Cáp (có nhị thôn là Cáp
trên và Cáp dưới), xã Đồng Minh, xã Long Cầu, xã Đoàn Đào, xã Hà Linh, xã Duyên
Linh.
2- Tổng Ba Đông có 11 xã (tức 11 làng bằng 11 thôn): Xã Ba
Đông, xã Trà Bồ, xã Phương Bồ, xã Duyệt Văn, xã Duyệt Lễ, xã Nghĩa Vũ, xã Tần
Tranh, xã Tần Nhẫn, xã Cao Xá, xã Phú Mãn và xã Phú Ân.
3- Tổng Viên Quang có 8 xã (tức 8 làng bằng 10 thôn): xã Viên
Quang, xã Quang Xá (nhị thôn là Phú Mỹ và thôn Nguyễn), xã Thọ Lão, xã Ngũ Lão,
xã Phan Xá, xã Tống Xá, xã Vũ Xá và xã Trần Xá (có nhị thôn Thượng và Hạ).
4- Tổng Cát Dương có 8 xã (tức 8 làng bằng 8 thôn): xã Cát
Dương, xã Hạ Cát, xã Nhật Lệ, xã Yên Lệ, xã Quang Lệ, xã An Nhuế, xã Đình Cao,
xã Văn Sa.
5- Tổng Võng Phan có 8 xã (tức 8 làng bằng 8 thôn): xã Võng Phan, xã An Cầu, xã Trà
Dương, xã La Tiến, xã Thị Viên, xã Giang Tân, xã Hạ Đồng, xã Sỹ Quý.
6- Tổng Kim Phương có 8 xã (tức 8 làng bằng 8 thôn): xã Kim
Phương, xã Phù Oanh, xã Phạm Xá, xã Hoàng Xá, xã Hoàng Các, xã Nại Khê, xã Cự
Phú, xã Tam Đa (có trại Tam Đa và Trại Vàng).
Khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nhân dân xây dựng chế độ
mới. Đến tháng 3 - 1946, các xã mới được thành lập trên cơ sở các làng. Toàn
huyện Phù Cừ được phân giới thành 15 xã mới gồm 56 thôn.
- Xã Minh Hoàng gồm 4 làng ( làng bằng thôn ) là Ải Quan, Quế
Lâm, Ngọc Trúc ( hợp nhất hai thôn cũ là Trúc Giản và Ngọc Tranh ) và Hoàng
Tranh.
- Xã Minh Tân có 5 thôn: Tần Tranh, Tần Nhẫn, Duyệt Văn, Duyệt
Lễ, Nghĩa Vũ.
- Xã Quang Hưng có 4 thôn: Viên Quang, Quang Xá, Thọ Lão,
Ngũ Lão.
- Xã Trần Cao có 3 thôn: Cao Xá, Trần Xá Hạ và Trần Xá Thượng.
- Xã Ái Quốc gồm 4 thôn: Ba Đông, Trà Bồ, Phương Bồ, Phú Mãn
(ghép 2 làng Phú Mãn và Phú Ân làm một làng lớn).
- Xã Tống Trân có 3 thôn: Võng Phan, An Cầu, Trà Dương.
- Xã Ngọc Thụ có 3 thôn: Đoàn Đào, Đồng Minh, Long Cầu
- Xã Bội Châu có 3 thôn: Đại Duy, Khả Duy, Đông Cáp.
- Xã Quyết Tiến gồm 5 thôn: Phan Xá, Tống Xá, Vũ Xá, Hạ Cát
và Cát Dương.
- Xã Nhật Quang gồm có 3 thôn: Nhật Lệ, Yên Lệ và Quang Lệ.
- Xã Nguyên Hoà có 8 thôn: La Tiến, Hạ Đồng, Sĩ Quý, Thị
Viên, Giang Tân, Cự Phú, Tam Đa và Ngũ Phúc (thành lập đầu năm 1946 trên cơ sở
trại Tam Đa và Trại Vàng).
- Xã Chí Minh có 3 thôn: An Nhuế, Đình Cao, Văn Sa.
- Xã Duyên Hà có 2 thôn: Hà Linh và Duyên Linh.
- Xã Quang Trung có 4 thôn: Hoàng Xá, Hoàng Các, Nại Khê và
Phạm Xá.
- Xã Kim Anh có 2 thôn: Phù Oanh và Kim Phương.
Năm 1947, có sự điều chỉnh địa giới các xã: Xã Ái Quốc đổi
thành xã Phan Sào Nam; sát nhập 2 xã Ngọc Thụ và Bội Châu thành xã Trường
Chinh; xã Duyên Hà nhập vào xã Chí Minh; hai xã Quang Trung và Kim Anh hợp nhất
thành xã Tiên Tiến. Sau đó, các thôn Yên Lệ và Quang Lệ hợp nhất thành thôn
Quang Yên; hai thôn Thị Viên và Giang Tân hợp nhất thành thôn Thị Giang.
Năm 1957, xã Nguyên Hoà tách thành xã Hạnh Phúc và xã Nguyên
Hoà, xã Tiên Tiến tách thành xã Minh Tiến và Tiên Tiến. Khi tiến hành cải tạo -
xây dựng chủ nghĩa xã hội, hai thôn Tần Tranh và Tần Nhẫn hợp nhất là Tần Tiến.
Năm 1966 cơ sở sản xuất tập trung của huyện (nông trường Tân
An) được giải thể để thành lập thôn Tân An ghép vào xã Nhật Quang.
Năm 1967, xã Trường Chinh đổi thành xã Đoàn Đào, xã Chí Minh
đổi thành xã Đình Cao. Khi cả nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội,
xã Quyết Tiến đổi thành xã Tống Phan; xã Hạnh Phúc đổi thành xã Tam Đa[3]. Đến
năm 2000, toàn huyện có 54 thôn được phân giới thành 14 xã:
1- Xã Minh Hoàng có 4 thôn: Ải Quan, Quế Lâm, Hoàng Tranh,
Ngọc Trúc.
2- Xã Đoàn Đào có 6 thôn: Đoàn Đào, Khả Duy, Đại Duy, Đông
Cáp, Đồng Minh, Long Cầu.
3- Xã Phan Sào Nam có 4 thôn: Ba Đông, Trà Bồ, Phương Bồ,
Phú Mãn.
4- Xã Minh Tân có 4 thôn: Duyệt Văn, Duyệt Lễ, Nghĩa Vũ, Tần
Tiến.
5- Xã Quang Hưng có 4 thôn: Viên Quang, Quang Xá, Thọ Lão và
Ngũ Lão.
6- Xã Trần Cao có 3 thôn: Cao Xá, Trần Xá Hạ và Trần Xá Thượng.
7- Xã Tống Phan có 5 thôn: Phan Xá, Tống Xá, Vũ Xá, Hạ Cát
và Cát Dương.
8- Xã Tam Đa có 3 thôn: Tam Đa, Cự Phú và Ngũ Phúc.
9- Xã Nguyên Hoà gồm 4 thôn: Hạ Đồng, Sỹ Quý, Thị Giang và
La Tiến.
10 Xã Minh Tiến có 3 thôn: Kim Phương, Phạm Xá và Phù Oanh.
11- Xã Đình Cao gồm 5 thôn: Đình Cao, An Nhuế, Văn Sa, Hà
Linh và Duyên Linh.
12- Xã Tiên Tiến có 3 thôn: Hoàng Xá, Hoàng Các và Nại Khê.
13- Xã Nhật Quang có 3 thôn: Nhật Lệ, Quang Yên và Tân An .
14- Xã Tống Trân có 3 thôn: Võng Phan, An Cầu và Trà Dương.
Phù Cừ có địa hình tương đối phẳng, cốt đất trũng thuộc diện
nhất nhì trong tỉnh. Nơi cao nhất tại đống Lang thôn Đoàn Đào là +3,09 m so với
mặt nước biển. Nơi trũng nhất thuộc xã Minh Tiến là +1,5 m so với mặt nước biển.
Do độ dốc không đều, nghiêng thoải về phía đông bắc, đông và
nam nên dọc theo sông Cửu An và sông Luộc thường trũng như các xã: Nguyên Hòa,
Tống Trân, Minh Tiến và khu lòng chảo xã Minh Tân. Mặt khác có hệ thống đê điều
của sông Luộc, sông Cửu An, sông Kẻ Sặt làm cho việc tiêu úng, cải tạo đồng ruộng
rất khó khăn vất vả so với nhiều huyện trong tỉnh.
Đất canh tác có độ phì tương đối cao, do trước kia được sông
Hồng và sông Luộc bồi đắp phù sa, nên có một số diện tích pha cát non hoặc bị
úng thủy lâu ngày lại sinh ra chua. Do đó, có một số diện tích đất canh tác bị
thôi chua, bạc điền, nên việc canh tác gặp nhiều khó khăn, trở ngại. Qua điều
tra về nông hóa thổ nhưỡng, đất canh tác có 6.155,78 ha được phân thành 5 nhóm:
+ Nhóm I là 1.330,81 ha.
+ Nhóm II là 1.498,58 ha.
+ Nhóm III là 1.726,75 ha.
+ Nhóm IV là 1.118,7 ha.
+ Nhóm V là 480,94 ha.
Khí hậu Phù Cừ mang những đặc điểm chung của đồng bằng sông
Hồng, đó là khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Chế độ gió có sự khác
biệt giữa hai mùa: Từ tháng 5 đến tháng 10, gió mùa hạ, chủ yếu thổi theo hướng
đông nam. Từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, gió mùa đông thổi theo hướng đông bắc.
Chế độ nhiệt có sự khác biệt rõ rệt giữa mùa hạ nắng nóng và
mùa đông lạnh. Chế độ mưa cũng có sự khác biệt giữa hai mùa, mùa mưa tập trung
vào mùa hạ tới 90% lượng mưa trong cả năm. Như vậy, khí hậu có hai mùa chính:
mùa hạ là mùa gió Đông Nam, nóng và mưa nhiều. Mùa đông có mùa gió Đông Bắc, lạnh
và mưa ít. Giữa hai mùa nóng và lạnh có hai thời kì chuyển tiếp ngắn là mùa
xuân và mùa thu.
Với những điều kiện tự nhiên đó, huyện Phù Cừ có lợi thế
phát triển nông nghiệp: cây lúa là cây lương thực chính, một số cây công nghiệp
ngắn ngày như mía, đay, lạc và đặc biệt cây rau màu vụ đông, cùng một số loại
cây trồng, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao; chăn nuôi gia súc, gia cầm khá
phát triển, đa dạng đảm bảo phục vụ nhu cầu cho nhân dân và cung cấp nguồn
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm trong vùng và xuất khẩu.
Về sông ngòi, huyện Phù Cừ có hệ thống sông ngòi toả rộng
trên đồng đất địa phương. Phía Bắc có sông Kẻ Sặt (nhân dân thường gọi là sông
tây Kẻ Sặt) chảy vào thôn Tần Tranh xã Minh Tân cho đến thôn Viên Quang xã
Quang Hưng làmthành ngã ba sông, hợp với sông Cửu An từ địa phận xã Phan Sào
Nam, Minh Tân, Quang Hưng rồi chạy dọc theo phía đông của huyện dài trên 10 km
đến xã Tam Đa.
Chính dòng sông này làm thành đường phân giới tự nhiên với
huyện Thanh Miện tỉnh Hải Dương. Dọc theo phía Nam là dòng sông Luộc chảy từ địa
phận thôn Võng Phan xã Tống Trân đến xã Nguyên Hoà với chiều dài 11 km, làm
thành đường phân giới tự nhiên với huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Dọc theo triền
sông Luộc, sông Cửu An và sông Tây Kẻ Sát có hệ thống đê điều bao bọc, nhân dân
địa phương qua nhiều thế hệ đã dày công xây đắp, bảo vệ cuộc sống thanh bình
cho những làng quê.
Từ khi hoà bình lập lại và trong giai đoạn cải tạo, xây dựng
chủ nghĩa xã hội nhân dân Phù Cừ cải tạo sông Nghĩa Trụ, đoạn từ xã Phan Sào
Nam đến xã Đình Cao dài 6,8 km. Đây là con sông quan trọng để lấy và tiêu nước
từ sông Cửu An cho phần lớn diện tích thuộc hai huyện Phù Cừ và Tiên Lữ. Vì thế,
theo dòng chảy cho đến thôn Long Cầu xã Đoàn Đào có đập Cầu Rồng để điều tiết
nước cho khu vực.
Cuối năm 1954, nhân dân khai sông Hoà Bình chạy dọc đường
39B với chiều dài 9,5 km trên đoạn Quán Đỏ đi Quang Hưng rồi đổ về sông Cửu An
để tưới tiêu cho các xã trong huyện. Dọc theo đường 202 có sông Sậy dài 12,75
km, phát nguyên từ thôn Sậy đến thôn La Tiến xã Nguyên Hoà.
Tất cả những con sông trên tạo thành hệ thống sông chính của
huyện. Ngoài ra, còn những con sông trung thủy nông khác.
- Sông Hiệp Hoà từ Nhật Quang đến xã Tống Trân dài 5,6 km.
- Sông Thống Nhất dài 5,6 km, từ cống Vàng đến xã Minh Tiến.
- Sông Đoàn Kết dài 6,5 km, đoạn từ xã Tam Đa đến xã Tống
Trân.
- Sông Quyết Thắng chạy từ thôn Võng Phan xã Tống Trân đến
xã Nguyên Hoà.
Cùng các con sông tiểu thủy nông, trạm bơm điện, mương chìm,
máng nổi làm thành hệ thống thủy lợi cải tạo đồng đất địa phương.
Về giao thông đường bộ, có quốc lộ 38B chạy từ tây sang
đông, nối thị xã Hưng Yên với thành phố Hải Dương, trong đó có 9,5 km đi qua
các xã Đoàn Đào, Trần Cao và Quang Hưng. Đường 201 xuất phát từ đê Võng Phan xã
Tống Trân đến cầu Tràng xã Quang Hưng dài 14 km. Đường 203 đi qua địa bàn của
huyện dài 3 km, trên đoạn từ cầu Vóc đến điểm lưỡi A hợp với đường 202 dài 15
km từ đê La Tiến xã Nguyên Hoà đến thôn Tần Tiến xã Minh Tân.
Quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhân dân
trong huyện đã nâng cấp những con đường nhỏ thời xưa và đắp mới nhiều đoạn,
hình thành trục đường 202B dài 8 km giải quyết giao thông từ xã Đình Cao đi xã
Minh Tân. Đường 203B dài 7 km từ Đông Cáp đến xã Minh Hoàng. Những con đường
trên hợp thành tuyến giao thông trọng yếu của huyện. Ngoài ra còn hệ thống giao
thông nông thôn đang được nâng cấp bằng vật liệu cứng, nhằm đáp ứng yêu cầu xây
dựng nông thôn đổi mới.
Từ Phù Cừ, ta có thể xuất phát theo đường bộ hoặc đường thủy
lên Hà Nội, ra Hải Phòng và tới các tỉnh được thuận tiện. Với địa thế đó, Phù Cừ
xứng đáng là cầu nối phía Đông của tỉnh, có vị trí quan trọng về quân sự trong
các cuộc chiến tranh giữ nước, thuận tiện trong giao lưu phát triển kinh tế -
văn hoá với các địa phương và khu vực.
Với những đặc điểm và điều kiện tự nhiên trên, đồng đất Phù
Cừ có nhiều thuận lợi phát triển nghề nông. Đó là những năm "Mưa thuận gió
hoà". Song, thiên nhiên cũng khắc nghiệt đối với những năm mưa - nắng thất
thường gây ra biết bao tai hoạ: úng thủy, bão lụt, dịch bệnh làm ảnh hưởng đến
tình hình canh tác và đời sống nhân dân. Vì thế, ngay từ buổi đầu khai phá,
nhân dân đoàn kết gắn bó bên nhau, cùng với trí thông minh, lòng dũng cảm, cần
cù và sáng tạo đã tiến hành những cuộc đấu tranh oanh liệt với thiên nhiên để tồn
tại - phát triển, tạo lập những làng quê trù phú.
Theo thư tịch cổ đã xác định, cư dân Phù Cừ là người Việt có
lịch sử định cư khá sớm cùng với thời điểm các bộ lạc “ Bách Việt”, tràn xuống
chinh phục đồng bằng Bắc bộ. Các dòng họ đến đây khai phá đất hoang, cải tạo đầm
lầy, dựng xóm lập làng và chống giặc ngoại xâm góp phần nhất định vào quá trình
dựng nước - giữ nước và hình thành dân tộc Việt Nam.
Qua thần tích các đình làng cho biết, làng xã xưa kia hình
thành và phát triển qua nhiều thời kỳ. Việc định cư trải qua nhiều thế hệ nối
tiếp. Tính đến năm 1999, toàn huyện có 84.421 người, thuộc diện trung bình của
tỉnh, có độ phân bố tương đối đều trên địa bàn toàn huyện.
Cư dân Phù Cừ là người Kinh, trên 11,63% dân số theo đạo Phật
và gần 5,23% dân số theo đạo Thiên chúa. Giáo dân tập trung đông nhất tại các
thôn: Cao Xá, Trần Hạ, Tần Nhẫn, Võng Phan cùng một số thôn khác có xen kẽ Giáo
- Lương, do hai trung tâm Cao Xá và Võng Phan liên hệ trực tiếp với giáo xứ tỉnh
Thái Bình. Trong nhân dân, Giáo - Lương đoàn kết phát huy truyền thống yêu nước
để vượt qua thử thách, giành thành tựu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quê
hương - đất nước.
Từ xưa cho đến nay, cư dân Phù Cừ lấy nông nghiệp cấy lúa nước
và trồng màu làm nguồn sống chính. Để làm ra hạt thóc, củ khoai, người nông dân
phải trải qua một quá trình lao động kiên cường, bền bỉ đối mặt với úng thủy, hạn
hán, dịch bệnh và tần tảo sớm khuya. Trên mỗi thửa ruộng này thấm đượm biết bao
mồ hôi, nước mắt và cả máu xương của nhiều thế hệ nối tiếp nhau đã hoá thân vào
lòng đất để có hạt gạo trắng thơm.
Việc canh tác xưa kia vô cùng vất vả, nhất là vào mùa mưa
bão, nước sông Luộc lên mấp mé thân đê chênh cao vào trong đồng. Trong khi đó,
nước mưa từ các ngả đồn về không tiêu kịp, đồng đất mênh mông chỉ một màu nước
trắng có lợi cho rau dong, cỏ ống và một số loài thủy sinh phát triển.
Vì thế, vụ mùa thường mất trắng, trừ một số cánh ruộng cao cấy
lúa, trồng màu được chút ít cũng chưa tương xứng với công sức khắc phục hậu quả
thiên tai. Nhiều năm hạn hán và úng thủy thường xen kẽ. Đầu vụ đại hạn, cấy được
cây lúa xuống phải tốn bao công đắp đập, bê bờ, tát nước. Song chỉ một đêm mưa
to, ngày mai nước trắng đồng nhấn chìm hàng nghìn héc ta lúa. Có thể nói Phù Cừ
là cái rốn nước của tỉnh Hưng Yên.
Dù cuộc sống có gian lao, vất vả nhưng nhân dân vẫn tha thiết
với ruộng đồng, giàu tính sáng tạo và cần cù trong lao động, họ đã đoàn kết một
lòng để vượt qua những trở lực khắc nghiệt của thiên nhiên. Từ nhiều đời nay,
thủy lợi vẫn là biện pháp hàng đầu. Thành tựu mở đầu là công trình trị thủy, với
hệ thống đê điều bao bọc liên hoàn từ phía bắc dọc phía đông đến phía nam và mở
cống Võng Phan, An Cầu, La Tiến lấy nước "Dẫn thủy nhập điền" để cấy
lúa, trồng khoai.
Với mọi phương cách đó, một năm chỉ cấy được một vụ bấp bênh
mà trông chờ vào nguồn nước mưa là chính, năng suất cao nhất cũng chỉ đạt khoảng
40-45 kg thóc/1 sào Bắc Bộ.
Để tồn tại và phát triển trên mảnh đất này, nhân dân Phù Cừ
sớm kiến lập được hệ sinh thái phù hợp với đồng đất địa phương. Nơi trũng và đầm
hồ, ao thì trồng sen, thả cá. Cánh cao và vùng đất bãi cấy lúa, trồng màu chuyển
vụ quanh năm. Với tình yêu quê hương đất nước, đức tính cần cù và sáng tạo
trong lao động, các xã, thôn trong huyện thuần hoá được giống lúa Dâu Đen, Muộn
Sụng chịu úng để cấy trên cánh ruộng trũng.
Khi mùa úng, chúng có thể ngoi theo triền nước nổi, đến vụ
mùa vẫn cho thu hoạch cao. Với những thành quả lao động trong quá trình chinh
phục thiên nhiên, cư dân Phù Cừ chọn lọc được những loại cây - con có giá trị
kinh tế cao để làm ra đặc sản của địa phương là: hạt sen, long nhãn, mật ong, nếp
cái hoa vàng, hạt gạo tám thơm ... làm phong phú đặc sản của Hưng Yên nổi tiếng.
Trong đó, có dưa hấu Đình Cao với chất lượng tuyệt vời, có độ
ngọt khác thường, thơm ngon, mát bổ, hương vị đặc trưng không có nơi nào sánh kịp
đã vang tiếng một thời.
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công đến hoà bình lập lại và
trong sự nghiệp cải tạo xây dựng chủ nghĩa xã hội, công tác thủy lợi ngày càng
hoàn thiện theo hướng kiên cố, hiện đại hoá. Nhân dân khai sông Hoà Bình chạy đọc
theo đường 38B rồi đổ về sông Cửu An thuộc địa phận xã Quang Hưng. Trên con
sông này đoạn đến địa phận Cầu Cáp nối với sông Nghĩa Trụ chảy về đập Cầu Rồng
(thuộc xã Đoàn Đào) rồi chảy ra sông Cửu An thuộc địa phận xã Phan Sào Nam.
Chính tuyến này đã điều tiết nước cho diện tích phía tây và
tây bắc của huyện. Đoạn hợp điểm thứ hai của sông Hoà Bình với sông Sậy chạy dọc
theo đường 386 từ La Tiến đến Phố Cao làm thành trục sông chính tưới tiêu cho
các xã trong huyện. Tiếp đó là những con sông trung thủy nông khác: như sông
Quyết Thắng chạy từ Võng Phan xuống La Tiến tiêu úng cho xã Tống Trân. Sông Sậy
từ Phố Cao đi xã Phan Sào Nam đến Minh Tân rồi đổ về sông Cửu An.
Cùng với hệ thống trung - tiểu thủy nông, còn có một số đập
ngăn nước được bê tông hoá rất thuận tiện cho việc đóng - mở điều tiết nước các
xã khu trung và khu nam của huyện. Phối hợp với các sông nội đồng hệ thống trạm
bơm điện với mương chìm, máng nổi đang toả rộng trên đồng đất địa phương. Đặc
biệt có trạm bơm tiêu úng My Động và trạm bơm Phương Bồ xã Phan Sào Nam đã cơ bản
giải quyết bước đầu về tiêu úng.
Với những công trình trị thủy đó, đồng đất Phù Cừ ngày nay
đã thay đổi khác xưa: Những câu ca "Đồng trắng nước trong, rau dong cua kềnh"
chỉ còn là huyền thoại. Thay vào đó là những cánh đồng lúa giống mới cao sản,
vùng cây công nghiệp, các loại cây - con, rau quả có giá trị kinh tế cao, ưu thế
cho xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, mang lại nguồn lợi lớn cho nhân dân địa
phương.
Trước yêu cầu mới, nhân dân Phù Cừ thừa kế truyền thống nghề
nông của cha ông thuở trước, đồng thời tiếp thu khoa học - công nghệ, tăng cường
công tác thủy lợi, nông hoá thổ nhưỡng, đưa giống mới vào đồng ruộng, tạo nên
những chuyển biến mới về cơ cấu mùa - vụ, từng bước thay đổi tập quán canh tác
để khai thác tiềm năng của đất có hiệu quả hơn, làm giàu đẹp quê hương.
Vào vụ Đông, sáng còn là ruộng lúa chín vàng, chiều biến
thành ruộng ngô, hoặc dưa leo xanh tốt đã trở thành hiện thực trên quê hương đổi
mới. Điều mà ngày xưa, cha ông ta chưa bao giờ mơ ước, thì nay đã trở thành
bình dị ở các xã trong huyện.
Cùng với nghề nông, các xã trong huyện có nghề thợ xây, thợ
mộc, đan lát, trồng dâu nuôi tằm dệt lụa, thợ rèn, chế biến nông sản và một số
nghề phụ khác đã bổ sung cho nền kinh tế tự cung, tự cấp thời xưa.
Trong sự nghiệp đổi mới, nghề truyền thống hưng thịnh và
phát triển thêm một số nghề mới với quy mô lớn trên phạm vi toàn huyện. Xã
Quang Hưng và Minh Tân nổi tiếng về sản xuất gạch ngói, nung vôi, mở xưởng gỗ,
vận tải thủy - bộ đường xa. Hầu hết các xã phát triển những trạm xay xát nhỏ,
chế biến sản phẩm nông nghiệp cho tiêu dùng và xuất khẩu làm phong phú kinh tế
nông thôn.
Từ sản xuất nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển tạo
tiền đề cho thương nghiệp, giao lưu kinh tế. Từ xa xưa, các xã ven sông Luộc,
sông Cửu An đã xuất hiện những thương thuyền buôn bán lúa gạo, tơ lụa và sản phẩm
của địa phương giao lưu với thị trường Hải Phòng, Hà Nội, Quảng Ninh.
Chợ nông thôn phát triển ở nhiều làng - xã, mà trung tâm là
các chợ Cao thuộc xã Đình Cao, chợ Từa ở xã Trần Cao, chợ Tràng thuộc xã Quang
Hưng. Ngày nay, những trung tâm buôn bán đó vẫn còn giữ được truyền thống, phát
triển đa dạng, phong phú thúc đẩy giao lưu kinh tế của địa phương và khu vực.
Trên cơ sở nền kinh tế phát triển, cơ sở xã hội và truyền thống
lịch sử văn hoá của nhân dân Phù Cừ mang đậm nét truyền thống văn hoá Việt Nam,
mà cốt lõi là thành tựu của nền văn minh sông Hồng rực rỡ. Đó là biểu tượng độc
đáo của các làng xã ở Phù Cừ đều lập đình làng thờ thành hoàng có công giúp dân
cứu nước, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trong tiến trình chung của đất nước, cư dân Phù Cừ xa xưa đã
cùng các bộ tộc trong khối cộng đồng "Bách Việt" tràn xuống chinh phục
đồng bằng Bắc Bộ, họ đã đoàn kết đắp đê trị thủy, chặt lau sậy chinh phục đầm lầy,
chống thú dữ và giặc ngoại xâm. Đó là đòng chảy liên tục về lịch sử - văn hoá của
nhiều thế hệ nối tiếp nhau xây đắp nên bản sắc quê hương, góp phần làm phong
phú truyền thống văn hoá Việt Nam.
Trong lịch sử dân tộc, dựng nước luôn đi đôi với giữ nước,
cư dân Phù Cừ vừa chinh phục thiên nhiên vừa đánh giặc ngoại xâm. Từ thời An
Dương Vương lập nghiệp xây thành Cổ Loa cho đến thời Bà Trưng và các triều đại
phong kiến sau này, nhân dân Phù Cừ đều ủng hộ quân lương, trai tráng trong
làng đều nhập nghĩa quân, góp phần làm nên chiến thắng Bạch Đằng lịch sử. Trong
ba lần chiến thắng Nguyên - Mông thời Trần rực rỡ, cư dân nơi đây cùng với các
địa phương trong vùng nằm trong phòng tuyến của phía Đông Bắc.
Đến các triều đại về sau, cư dân Phù Cừ đã xuất hiện các tướng
lĩnh cầm quân đánh giặc, mang lại nền thái bình cho đất nước. Ngày nay, những dấu
tích đó còn lưu lại trong Ngọc phả của 11 đền thờ và thần tích 25 ngôi đình
làng trong huyện.
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, truyền thống yêu nước được
tiếp nối, nhân dân tham gia cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy. Lực lượng tham gia nghĩa
quân đông nhất thuộc các thôn trong xã Minh Hoàng, Đoàn Đào, Phan Sào Nam và
Minh Tân ngày nay. Đó là tên tuổi của các tướng lĩnh của nghĩa quân: Bùi Đăng Hợi,
Bùi Đăng Hiệp (tức Hiệp trẻ), Lê Ngọc Sào và Hà Tiến Thâu ở thôn Đoàn Đào đã
mưu trí, dũng cảm phất cờ của nghĩa quân Bãi Sậy tiêu diệt địch.
Cùng với lịch sử chống ngoại xâm, giá trị tư tưởng văn hoá
còn lưu lại trong 45 ngôi chùa thờ Phật và các Đậu thờ trong vùng. Trong đó có
5 Đậu thờ lớn nhất là Đậu Từa (xã Trần Cao), Đậu Trà Bồ (xã Phan Sào Nam), Đậu
Tam Đa (xã Tam Đa), Đậu Quang Xá (xã Quang Hưng) và Đậu Hà Linh (xã Đình Cao) đều
thờ Ngọc Hoàng, thờ Trời là hiện thân tư tưởng triết học cổ đại về vũ trụ quan
từ xa xưa có quan hệ chặt chẽ đối với cư dân trồng lúa nước.
Ngoài ra, còn có một số văn chỉ hàng huyện, hàng tổng thờ Khổng
Tử thuộc về Nho giáo và cũng là nơi quy tụ các bậc "Nho gia" lỗi lạc
để bình thơ văn, đề cao trí tuệ việc học hành của nhân dân địa phương. Trong số
những ngôi chùa ở Phù Cừ, một số ngôi chùa có công lớn trong cách mạng và kháng
chiến như: chùa Nại Khê - nơi học tập quân sự, chính trị và in tài liệu cho Việt
Minh.
Gác Tam Quan ở chùa Đình Cao, nơi tuyên bố thành lập Uỷ ban
nhân dân cách mạng lâm thời huyện năm 1945. Kế tiếp đó là chùa Sậy của xã Minh
Tân đã che chở nuôi dưỡng và bảo đảm hoạt động an toàn của công binh xưởng Quân
khu III về tản cư tại địa phương trong suốt những năm đầu của cuộc kháng chiến.
Cổ nhân đã để lại biết bao giá trị lịch sử văn hoá, song do
chiến tranh tàn phá, cộng với sự biến động của thời gian, nên những công trình
kiến trúc đó chỉ còn lại rất ít được nhân dân tôn tạo, tu bổ thành những cảnh
quan và khơi dậy truyền thống lịch sử - văn hoá của cha ông thuở trước làm giàu
đẹp quê hương.
Tính đến năm 1999, toàn huyện có 6 điểm được Bộ Văn hoá -
Thông tin xếp hạng là di tích lịch sử - văn hoá. Đó là ba di tích thuộc xã Tống
Trân gồm:
+ Đền thờ Lưỡng Quốc Trạng nguyên thuộc thôn An Cầu.
+ Đền Lê Xá thuộc thôn An Cầu thờ bà Dương Thị Ngọc Thư là
hoàng hậu của vua Ngô Quyền đã cùng nhân dân địa phương dẹp tan quân Nam Hán.
+ Chùa Trà Dương thờ Phật - giầu giá trị nhân văn, có sập đá
cổ với hoa văn đài sen, sóng nước vân mây thuộc niên đại thời nhà Đinh - là di
sản quý của nhân dân trong huyện.
Kế tiếp là Ba điểm: Tại
đậu Trà Bồ thuộc xã Phan Sào Nam, đình Nghĩa Vũ xã Minh Tân và đền thờ bà Cúc
Hoa là vợ của Trạng nguyên Tống Trân, giữ tiết hạnh chờ chồng đi 10 năm sứ sang
Tàu (Trung Quốc). Ngày nay, một số quần thể thuộc các di tích lịch sử - văn hoá
được nhân dân bảo vệ và phát huy những yếu tố tích cực cho đời sống văn hoá địa
phương.
Gắn với quần thể văn hoá vật chất, những giá trị văn hoá
tinh thần phát triển, mà biểu trưng là lễ hội truyền thống của các làng xã
trong huyện. Theo lệ tiết hàng năm, các đình làng, đền thờ, đậu thờ... đều quy
định: Xuân - Thu nhị kỳ tế lễ. Song lễ hội tập trung vào mùa xuân, cử mỗi đội
xuân về, tùy theo từng làng xã có quy định khác nhau về ngày "Làng vào
đám".
Thông thường từ mồng 4 tết trở ra các làng vào đám mở hội khai
xuân, mang sức sống mới thanh bình cho làng quê trù phú. Trước hết là phần lễ
và sau là phần hội vui tươi lành mạnh, ca ngợi cuộc sống đôn hậu của cư dân địa
phương. Lễ hội đã thu hút các bậc cao niên và trai tài, gái giỏi và các hoạt động
văn hoá giàu tính nhân văn như ca hát, đánh cờ, đối thơ... Biết bao khúc dân ca
quen thuộc, làn điệu chèo cổ, hát cửa đình, hát trống quân... đã tô đậm giá trị
truyền thống quê hương hoà quyện với hồn dân tộc làm cho làng quê đầm ấm khi mỗi
độ xuân về.
Ngày nay, lễ hội truyền thống từng bước được khôi phục, tính
đến năm 1999, toàn huyện có 4 điểm được tổ chức lễ hội theo quy mô cấp xã. Đó
là lễ hội Đền thờ Trạng nguyên Tống Trân ở thôn An Cầu xã Tống Trân; Lễ hội Đậu
Trà Bồ thuộc xã Phan Sào Nam; Lễ hội Đậu Từa ở xã Trần Cao và lễ hội ở Chùa Bà
của xã Nhật Quang. Thông qua lễ hội khai thác những mặt tích cực của giá trị
tinh thần cho cuộc sống của toàn dân để đoàn kết xây dựng và bảo vệ quê hương đất
nước.
Tất cả điều kiện tự nhiên và xã hội là tố chất cơ bản để hun
đúc nên tâm tưởng, tư chất thông minh hiếu học, cần cù và sáng tạo, anh hùng
dũng cảm trong đấu tranh với thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm.
Trong đó, qua các thời kỳ lịch sử các bậc hiền tài đã giúp
dân cứu nước. Vào thời nhà Trần, tại thôn An Cầu huyện Phù Hoa (sau này là huyện
Phù Dung và là huyện Phù Cừ) có Trạng nguyên Tống Trân, sau đó đi sứ sang nước
Tàu (Trung Quốc), vua Tàu phục tài năng của ông nên đã phong là Trạng nguyên.
Do đó, ông là Lưỡng quốc Trạng nguyên Tống Trân[4].
Với truyền thống hiếu học của nhân dân, các triều đại phong
kiến Việt Nam đều xuất hiện nhân tài của đất nước có nhiều vị thi cử đỗ đạt
cao: Như cụ Nguyễn Khắc Tân ở huyện Phù Dung đỗ tiến sĩ năm Quý Dậu (1453) vào
đời vua Lê Nhân Tông. Khi đó, ông vừa tròn 25 tuổi - đang ở độ cống hiến tài
năng sung sức nhất cho đất nước.
Sang triều nhà Mạc, vào đời Mạc Phúc Nguyên trị vì đất nước,
huyện Phù Dung có 2 vị đỗ đạt cao. Đó là cụ Nguyễn Trí Dụng đỗ tiến sĩ, năm
Đinh Mùi (1547) làm quan đến chức Tham chính. Kế đến cụ Trần Văn là người làng
Phan Xá (xã Tống Phan ngày nay) huyện Phù Dung đậu Bảng Nhãn vào năm Canh Tuất
(1550) làm quan trong triều nhà Mạc.
Tháng 8 năm 1802 (Nhâm Tuất), Nguyễn Du – Đại thi hào dân tộc,
Danh nhân văn hóa thế giới (quê làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) được
vua Gia Long bổ nhiệm về làm tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam
(nay là huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên)[5].
Đến thời thuộc Pháp, có cụ Nguyễn Công Tiễu ở thôn Trà Bồ
(thuộc xã Phan Sào Nam ngày nay) với lòng ham học hỏi, trí thông minh và say mê
nghiên cứu khoa học đã để lại một công trình đồ sộ nghiên cứu về nông học Việt
Nam.
Theo dòng lịch sử, thời nào cũng có những người thi cử đỗ đạt
cao làm rạng rỡ quê hương đất nước. Còn đại bộ phận dân cư giàu lòng hiếu học
nhưng không có điều kiện đến lớp, họ học theo lối "truyền khẩu” về kinh
nghiệp sản xuất, cách ứng xử của con người trong gia đình và xã hội. Ngoài ra,
còn học hỏi kinh nghiệm dân gian về trị thủy, nhận biết về thời tiết, nông lịch
cho sản xuất nông nghiệp, thuần dưỡng các loại cây - con làm ra đặc sản của địa
phương.
Ngày nay, truyền thống xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước
được phát triển trong điều kiện mới, nhân dân vẫn thiết tha với đồng ruộng,
thông minh sáng tạo, xây dựng cuộc sống xóm thôn và bảo vệ quê hương đất nước.
Trong hai cuộc kháng chiến anh dũng dân tộc và bảo vệ tổ quốc, toàn huyện có 25
nghìn người tham gia các lực lượng vũ trang cùng toàn dân có nhiều cống hiến
quan trọng toàn diện, góp phần cùng cả nước hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong đó, có hàng chục người là sĩ quan cao cấp, hàng nghìn
người là sĩ quan và hạ sĩ quan trong quân đội nhân dân Việt Nam. Với những
thành tựu đó Đảng và Nhà nước đã phong tặng huyện Phù Cừ, xã Tống Phan và xã
Quang Hưng là đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân[6].
Phát huy truyền thống anh hùng của quê hương các xã - thôn
đang vững bước trên con đường đổi mới, tiếp bước kiến tạo xóm thôn của cha ông
thuở trước, xây dựng nông thôn ngày thêm giàu đẹp. Hệ thống điện - đường - trường
- trạm của các xã trong huyện đang được nâng cấp và từng bước hoàn thiện xây dựng
nông thôn đổi mới.
Những thành tựu về kinh tế xã hội mang lại đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân địa phương. Bộ mặt nông thôn đang đổi thay từng ngày,
sự nghiệp y tế - giáo dục phát triển, toàn dân được phổ cập cấp I, trong đó có
80% dân số có trình độ cấp II và cấp III. Con em nhân dân lao động được trí thức
hoá ở trình độ cao, có 25% dân số đạt trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.
Trong chiến đấu, sản xuất và xây dựng, biết bao những người con của quê hương
đã tôi luyện trở thành cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước và trong các lực lượng
vũ trang.
Nhân lực - trí lực của nhân dân Phù Cừ luôn xứng đáng với tổ
tiên thuở trước, ngày nay có hàng nghìn người trở thành kỹ sư, bác sĩ, các nhà
hoạt động văn hoá nghệ thuật, công tác xã hội, cán bộ quản lý, cán bộ khoa học
- kỹ thuật - nhân văn, bộ đội, công nhân và cả cư dân Phù Cừ đã và đang công
tác, lập nghiệp trên khắp mọi miền của Tổ quốc luôn hướng về xây dựng quê
hương, trở về với cội nguồn - nơi đã từng thấm đượm biết bao giọt mồ hôi và cả
máu xương của cha ông thuở trước để làm giàu đẹp quê hương đất nước hôm nay.
Mảnh đất và con người Phù Cừ trường tồn trong lịch sử thật
anh dũng, ngời sáng bản anh hùng ca về lịch sử đấu tranh oanh liệt với thiên
nhiên và kiên cường chống giặc ngoại xâm. Tất cả điều kiện tự nhiên, xã hội và
truyền thống đã hun đúc nên phẩm chất cao quý của nhân dân Phù Cừ. Đó là tư chất
thông minh hiếu học, cần cù - sáng tạo, kiên cường - dũng cảm và giàu đức tính
hy sinh vì quê hương đất nước.
Những tinh hoa và truyền thống tốt đẹp đó chỉ được phát huy
có hiệu quả nhất, khi toàn dân đoàn kết dưới ngọn cờ vinh quang của Đảng. Ngày
nay trước yêu cầu của thời kỳ đổi mới, Đảng
bộ và nhân dân Phù Cừ đang từng bước thực hiện sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chiến thắng nghèo
nàn lạc hậu, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.
[1]- Đường 202 là
đường thuộc huyện quản lý. Ngày 16-11-2012 Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên ra Quyết
định số 2.031 chuyển tuyến đường huyện 202 thành đường tỉnh 386, có hiệu lực từ
ngày 01-01-2013.
[2]- Dưới thời
Pháp thuộc cho đến năm 1977, huyện lỵ Phù Cừ đặt trên địa phận thôn Đình Cao.
[3]- Quá trình
thay đổi đơn vị hành chính rất phức tạp. Chúng tôi chỉ lược trình theo tên thôn
xã đã ổn định.
[4] - Bia số 1 Văn
miếu Xích Đằng ghi: “Tống Trân, người xã An Cầu, huyện Phù Cừ đỗ Trạng nguyên,
năm Giáp Thìn nhà Trần”.
[5]- Nguyễn Lộc.
Văn học Việt Nam (Nửa cuối thế kỷ XVIII - Hết thế kỷ XIX) - Chương bảy: Nguyễn
Du (1766-1820), Gia thế và cuộc đời Nguyễn Du, trang 301, NXB Giáo dục - 1999.
[6]- Tính đến
tháng 12- 2012 huyện Phù Cừ và 7 xã ( Tống Phan, Quang Hưng, Phan Sào Nam, Tam
Đa, Đoàn Đào, Minh Tân, Nguyên Hòa ) được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu
đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Lịch sử Đảng bộ huyện
Phù Cừ, Tập I (1938-1975)