Cứ đến ngày 23 tháng Chạp hàng năm, người Việt lại làm lễ cúng ông Táo, đưa ông Táo về trời. Việc chuẩn bị Tết, ồn ào sôi động hay lặng lẽ âm thầm, đã diễn ra từ đầu tháng hoặc sớm hơn nữa, nhưng không khí Tết chỉ thực sự bắt đầu từ khi đưa ông Táo.
Ông Táo là ai, tại sao lại có vai trò quan trọng như vậy đối với tết của người Việt?
Đã có nhiều sách báo trả lời câu hỏi này, theo nhiều góc độ khác nhau. Có người cho rằng, tục thờ cúng ông Táo là “tàn dư” của tín ngưỡng thờ thần lửa thời nguyên thủy, có người nói đó là một sản phẩm du nhập từ đạo Lão bên Tàu – còn gọi là Đạo giáo, là một tôn giáo chủ trương đa thần, nhìn thấy thần thánh ma quỷ ở mọi nơi từ cây đa đến giếng nước và khuyến khích con người tu luyện để thành tiên thành thánh…
Nhưng từ góc độ văn hóa, câu chuyện cổ tích về ông Táo bà Táo và tục thờ cúng ông Táo lại có thể là một biểu hiện của tinh thần trọng nghĩa của người bình dân.
Theo TS Nguyễn Xuân Diện, Viện nghiên cứu Hán Nôm, “Ở Việt Nam, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, do đó có những sự khác nhau về tình tiết, nội dung chính được tóm tắt như sau: Trọng Cao có vợ là Thị Nhi ăn ở với nhau đã lâu mà không có con, nên sinh ra buồn phiền, hay cãi cọ nhau. Một hôm, Trọng Cao giận quá, đánh vợ. Thị Nhi bỏ nhà ra đi, sau đó gặp và bằng lòng làm vợ Phạm Lang.
Khi Trọng Cao hết giận vợ, nghĩ lại mình cũng có lỗi nên đi tìm vợ. Khi đi tìm vì tiền bạc đem theo đều tiêu hết nên Trọng Cao đành phải đi ăn xin.
Khi Trọng Cao đến ăn xin nhà Thị Nhi, thì hai bên nhận ra nhau. Thị Nhi rước Trọng Cao vào nhà, hai người kể chuyện và Thị Nhi tỏ lòng ân hận vì đã trót lấy Phạm Lang làm chồng.
Phạm Lang trở về nhà. Sợ chồng bắt gặp Trọng Cao nơi đây thì khó giải thích, nên Thị Nhi bảo Trọng Cao ẩn trong đống rơm ngoài vườn. Phạm Lang về nhà liền ra đốt đống rơm để lấy tro bón ruộng. Trọng Cao không dám chui ra nên bị chết thiêu. Thị Nhi trong nhà chạy ra thấy Trọng Cao đã chết bởi sự sắp đặt của mình nên nhào vào đống rơm đang cháy để chết theo.
Phạm Lang gặp tình cảnh quá bất ngờ, thấy vợ chết không biết tính sao, liền nhảy vào đống rơm đang cháy để chết theo vợ.
Linh hồn của ba vị được đưa lên Thượng Đế. Thượng Đế thấy ba người đều có nghĩa, nên sắc phong cho làm Táo Quân, gọi chung là: Định Phúc Táo Quân, nhưng mỗi người giữ một việc:
- Phạm Lang làm Thổ Công, trông coi việc bếp. Danh hiệu: Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân;
- Trọng Cao làm Thổ Địa, trông coi việc nhà cửa. Danh hiệu: Thổ Địa Long Mạch Tôn Thần
- Thị Nhi làm Thổ Kỳ, trông coi việc chợ búa. Danh hiệu: Ngũ Phương Ngũ Thổ Phúc Đức Chánh Thần”.
Trong bếp của mỗi gia đình ngày xưa, các ông bà Táo kể trên được thể hiện bằng ba ông táo, là ba hòn đất nung, hay ba viên gạch, dùng để đặt nồi đun nấu, có nơi còn gọi là ba ông đầu rau. Cảm kích cái nghĩa tình chồng vợ của ba nhân vật trong truyền thuyết và trân trọng vai trò của cái bếp trong cuộc sống hàng ngày, người Việt xưa thường coi bếp là chỗ quan trọng không kém phòng khách của gia đình; bên trên bếp thường có bàn thờ ông Táo, hàng ngày hương (nhang) khói và cuối năm thì làm lễ cúng tiễn ông Táo về trời.
Lễ cúng, chay hay mặn, tùy vào tục lệ từng địa phương, nhưng nhất thiết phải có 3 chiếc mũ (mão) bằng giấy vàng mã, một chiếc màu vàng cho bà Táo Thị Nhi và hai chiếc màu đỏ (hay đen) cho hai ông Táo còn lại.
Chẳng biết tự bao giờ, trong tín ngưỡng dân gian, ông bà Táo ngoài chức năng trông coi việc bếp núc, củi lửa, còn có thêm nhiệm vụ “theo dõi” tình hình của gia chủ và cuối năm ngày 23 lên báo cáo với Trời. Có lẽ người xưa cho rằng, bếp chính là nơi biểu hiện trung thực nhất tình cảnh một gia đình, giàu hay nghèo, sang hay hèn, thuận hòa êm ấm hay lục đục xáo trộn đều có thể hiện ra trong việc chuẩn bị bữa ăn.
Chức năng “theo dõi và báo cáo” của Táo về sau được “văn chương hóa” thành những bài văn vần gọi là “sớ Táo quân” mà chúng ta thường thấy trong các tờ báo Xuân ngày trước hay trong chương trình hài kịch cuối năm trên truyền hình hiện nay. Có điều, trong các sớ Táo quân hay chương trình hài kịch, “báo cáo” được trình bày không chỉ là chuyện của một gia đình mà thường là chuyện của cả xã hội, cả nước, được “tổng kết” theo phong vị hài hước, chế giễu những thói đời hư hỏng, đồi bại, gây tiếng cười để tống tiễn năm cũ, đón năm mới.
Để giúp phương tiện cho ông Táo lên chầu trời, trong lễ cúng ông Táo, ngoài bộ đồ mã nói trên còn có 3 con cá chép sống; sau lễ cúng cá chép sẽ được thả ra hồ, ao. Ở miền Trung quê tôi, hiếm cá chép, người ta thường thay bằng tờ giấy vẽ hình cá chép, cúng xong thì đốt cùng với đồ vàng mã.
Tại sao ông Táo phải cưỡi cá chép lên trời mà không dùng phương tiện gì khác? Cũng theo TS Nguyễn Xuân Diện, “Cá Chép Vàng hay còn gọi là Cá Chép Tiên là một loài động vật sống ở trên Thiên Đình, hồi trước sống trên trời, do phạm phải lỗi, nên bị Thượng Đế đày xuống trần gian để tu hành để chuộc lại tội lỗi của mình gây ra. Sau khi tu hành có chính quả, thì cá Chép sẽ hóa thân thành rồng và bay lên Trời. Còn Ông Táo là do Thượng Đế phái xuống trần tục để theo dõi loài người, xem ai là người Thiện, người Ác”.
Ngày nay, trong các gia đình hiện đại, cái bếp với ba ông táo được thay bằng bếp gas, bếp điện từ… hình ảnh ba ông đầu rau đen nhẻm không còn nữa. Tuy nhiên, lệ cúng ông Táo không mất đi mà đến ngày 23 tháng Chạp hàng năm, lễ tiễn ông Táo về trời vẫn được tiến hành khắp các làng quê, phố thị.
Sự hiện diện của ông Táo trong tín ngưỡng, trong tâm linh người dân vẫn có tác dụng nhắc nhở con người coi trọng tình nghĩa, sống sao cho tốt để khỏi bị ông Táo tố cáo với trời đất. Và đó chính là nét đẹp của tục thờ ông Táo của người Việt chúng ta.
>>> Các Táo quân trong chương trình Gặp nhau cuối năm 2011 của Đài Truyền hình Việt Nam:
Nguồn : SGT