Chùa Hàm Long hiện nay thuộc số nhà 18, phố Hàm Long, phường Phan Châu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chùa thờ Phật và thờ thần Ngô Long là Long thần giáng sinh, người có công lớn trong việc bảo vệ đất nước dưới thời Vua Hùng Vương.
Chùa Hàm Long có tên chữ là “Hàm Long Tự." Năm 1950 có
hai vị hòa thượng Tố Liên và Tứ Hải đứng ra trùng tu chùa, làm nơi giảng pháp
nên di tích còn có tên là chùa Vạn Hạnh.
Chùa Hàm Long hiện nay thuộc số nhà 18, phố Hàm Long, phường
Phan Châu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Theo những ghi chép để lại, chùa Hàm Long ra đời rất sớm,
lúc đầu là một ngôi đền cổ thờ vị thần Ngô Long là Long thần giáng sinh, người
có công lớn trong việc bảo vệ đất nước dưới thời Vua Hùng Vương. Theo truyền thuyết thì thần Ngô Long là vị phụ đạo chính quốc thời Hùng
Duệ Vương, có công dẹp giặc Hồ Lư ở Châu Hoan. Ngô Long từng sống ở quán
Long Đầu.
Khi Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long, nhà vua cho dựng chùa
ngay ở đền thờ Ngô Long vì cho rằng vị thần cũng bảo vệ chùa, hộ trì Phật Pháp.
Cuối thế kỷ 17, Thái Phi họ Trương, vợ Tấn Quang vương Trịnh
Bính và một số người trong dòng tộc đã sửa lại ngôi chùa với quy mô lớn, thành
một nơi “Danh thắng trong 36 cõi thiền." Công việc tiến hành trong 11 năm
từ năm Chính Hòa 23 (năm 1702) đến Vĩnh Thịnh 9 (năm 1713) mới hoàn thành.
Đến năm 1958 ngôi Chùa được trùng tu lần nữa, có mở thêm trường
giảng Phật pháp cho tăng ni phật tử. Như vậy, chùa Hàm Long vừa thờ Phật, vừa
thờ Thần.
Phần kiến trúc của chùa được xây dựng vào cuối thập kỷ 40 của
thế kỷ 20 gồm khu thờ tự và trường Phật học. Trường là một dãy nhà kiến trúc kiểu
mới, hai tầng mái bằng trên mặt gian nền và toàn bộ tầng trệt của Chùa.
Khu thờ Phật được quy hoạch trên tầng hai. Chùa chính được
xây gạch, phần trên làm hai tầng mái với các góc đao cong. Chính giữa bờ nóc đắp
đôi rồng chầu mặt trời. Cổ diêm giữa hai mái xếp chấn song bằng sứ, hình con tiện.
Mặt ngoài đắp tên chùa bằng chữ Hán “Hàm Long Tự."
Trên vị trí trang trọng nhất trong Chính điện là bộ Tam Thế;
tiếp đến là bộ A Di Đà tam tôn, Quan Âm chuẩn đề, tòa Cửu Long, Bồ Tát Văn Thù,
Bồ tát Phổ Hiền, Phật Di Lặc, Đức Chúa Ông, Đức Thánh Tăng, Quan Nam Tào, Quan
Bắc Đẩu. Tượng Ngô Long cũng được thờ chung ở đây cùng với Thập điện Diêm
Vương, Bồ Tát. Các pho tượng đều có kích thước nhỏ, mang phong cách nghệ thuật
thời Nguyễn.
Cũng trên sân tầng hai chếch về phía bên phải chùa chính còn
có hai kiến trúc nhỏ là Điện thờ Thánh Mẫu và miếu thờ Thành hoàng.
Điện thờ Thánh Mẫu gồm hai gian xây gạch, bốn mái, gian giữa
thờ Tứ phủ, Tam phủ, Đức Thánh Trần và Mẫu Thượng ngàn; gian bên thờ tổ Bồ Đề đạt
ma và hai vị sư Tổ của chùa đã viên tịch.
Miếu thờ Thành hoàng Ngô Long nằm sát tường hồi tầng hai, mặt
trước treo bức cửa võng chạm rồng chầu, tứ linh, bên trong đặt long ngai, bài vị
Thành hoàng.
Dấu tích cổ nhất của chùa Hàm Long là hai tấm bia đá và hai
tháp ba tầng, nơi lưu giữ xá lị của các nhà sư đã viên tịch. Bia nằm trên khu đất
cũ của chùa cách chùa chính khoảng 30m, dựng năm Giáp Ngọ Vĩnh Thịnh 10 (năm
1714). Bài ký trên bia do hai danh thần thời hậu Lê là Đặng Đình Tướng và Nguyễn
Quý Đức soạn, nội dung nói về việc trùng tu chùa Hàm Long đầu thế kỷ 18.
Chùa Hàm Long là một ngôi chùa cổ nổi tiếng của kinh thành
Thăng Long xưa. Với tổng thể vừa thờ Phật, vừa thờ Thần, chùa Hàm Long mang đậm
nét đặc trưng của Phật giáo Việt Nam. Đó là sự tiếp nhận những vị thần vốn là
người có công với nước vào trong hệ thống của Phật giáo.
Ngoài ra chùa còn có trường Phật học của Hà Nội, kết hợp chức
năng tôn giáo với đào tạo tăng ni phật tử. Đó là những đặc điểm chính của chùa
Hàm Long, mặc dù kiến trúc cũ của ngôi Chùa đã bị phôi phai đi nhiều cùng với
quá trình đô thị hóa./.
Đình Trung (TTXVN/Vietnam+)