Chùa Kiến Sơ tọa lạc cạnh đền Phù Đổng, thuộc huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, có lịch sử hơn 1000 năm. Nơi đây còn là nguồn gốc của dòng thiền Vô Ngôn Thông được truyền lưu qua 17 đời, cho đến thế kỷ 13. Chùa được xếp hạng di tích lịch sử quốc gia vào năm 1975.
Chùa do Thiền sư Cảm Thành khởi dựng vào những năm đầu thế kỷ
thứ IX và là nơi khởi phát của Thiền phái Vô Ngôn Thông, cũng là nơi tu hành của
nhiều bậc danh tăng nổi tiếng trong lịch sử: các Thiền sư Vô Ngôn Thông, Cảm
Thành, Đa Bảo, Ni sư Diệu Nhân…
Theo sách Thiền uyển tập anh, bấy giờ có một vị phú hào ở
hương Phù Đổng, người họ Nguyễn kính mộ việc trì giới đức hạnh cao cả của sư Lập
Đức, tự nguyện cúng gia trạch để làm chùa, mời sư đến trụ trì.
Ban đầu sư từ chối, nhưng đêm ấy sư chiêm bao thấy thần nhân
đến bảo: "Nếu làm theo chí nguyện của nhà họ Nguyễn thì chỉ chừng vài năm
sẽ gặp được vận lớn". Vì thế sư bèn nhận lời, đến hương Phù Đổng lập chùa,
chính là chùa Kiến Sơ ngày nay, sau này pháp danh của sư Lập Đức được đổi tên
là Cảm Thành.
Tam quan Chùa Kiến Sơ
Thiền uyển tập anh chép: "Tháng Chín năm Canh Tý niên
hiệu Đường Nguyên Hòa thứ 15 (820), sư (tức Thiền sư Vô Ngôn Thông) đến chùa Kiến
Sơ. Ngoài hai bữa cơm cháo, suốt ngày sư chỉ ngồi quay mặt vào tường, không nói
một lời, chuyên chú tu tập thiền định làm vui.
Suốt mấy năm liền như thế nên người ngoài không ai biết sư,
chỉ có sư trụ trì chùa là Cảm Thành hết lòng kính cẩn hầu hạ. Cảm Thành gần gũi
bên cạnh sư để học hỏi những điều cơ vi huyền diệu, hiểu rõ yếu chỉ của Thiền
tông".
Vào ngày 12 tháng Giêng năm Bính Ngọ niên hiệu Bảo Lịch thứ
2 thời thuộc Đường (826), Ngài Vô Ngôn Thông gọi sư Cảm Thành đến truyền bảo:
"Ngày trước Tổ ta là Nam Nhạc Hoài Nhượng thiền sư, khi quy tịch có đọc
bài kệ rằng:
Nhất thiết chư
pháp/Giai tòng tâm sinh/Tâm vô sở sinh/Pháp vô sở trụ/Nhược đạt tâm địa/Sở tác
vô ngại/Phi ngộ thượng căn/Thận vật khinh hứa.
Tất cả các pháp/Đều từ tâm sinh/Tâm không chỗ sinh/Pháp
không chỗ trụ/Nếu đạt đất lòng/Làm gì chẳng ngại/Không gặp thượng căn/Cẩn thận
chớ nói".
Mặc dù vẫn đang khỏe mạnh, nhưng nói xong thì Thiền sư Vô
Ngôn Thông chắp tay thu thần thị tịch. Từ đó, Thiền phái Vô Ngôn Thông ra đời,
chủ trương đốn ngộ, trao đổi truyền bá đạo pháp không dùng nhiều lời nhưng người
nghe vẫn thông (hiểu) được.
Vào năm Canh Thìn, niên hiệu Hàm Thông thứ nhất thời Đường
(860), sư Cảm Thành không bệnh mà nhập diệt, truyền trao y bát cho Thiền sư Đa
Bảo. Đến thế kỷ XI-XIV, từ phái Vô Ngôn Thông phát triển thành một nền thiền học
Việt Nam vô cùng rực rỡ, mỗi nhà sư đều trở thành những thi sĩ.
Kiến trúc chùa Kiến Sơ ngày nay khá bề thế. Cổng tam quan 5
gian chồng diêm 2 tầng, dóng ngang hàng với cổng đền Phù Đổng. Chùa chính theo
kiểu nội công ngoại quốc như nhiều ngôi chùa cổ thường thấy ở Bắc Bộ. Trước tiền
đường về phía bên trái có một chiếc khánh đá cổ tạc thô sơ, tuổi ít nhất 400
năm.
Ni sư Thích Đàm Truyền, trụ trì chùa cho biết: "Tôi về
trụ trì chùa từ năm 1971 đã thấy khánh đá bị vứt nằm chỏng chơ trong nhà Tổ, cột
treo khánh bị gãy hết cả. Mãi tới cách đây 10 năm, nhà chùa mới xây mới 2 cột
trụ phía trước tiền đường, rồi đem khánh đá ra treo".
Gây ấn tượng nhất đối với khách thập phương khi đến thăm
chùa Kiến Sơ có lẽ là tòa Động liên hoàn bằng đất thó, tuổi hơn 200 năm. Đây là
tác phẩm động Cửu Long nhân tạo cổ xưa có kích thước lớn nhất Việt Nam: dài 8m,
cao 3m, dày 2m.
Tác phẩm gồm 5 tòa động liên hoàn. Hai bên hông gồm: động tội
tái hiện tích truyện Mục Kiền Liên chứng kiến mẹ Ngài bị hành hạ khắc nghiệt dưới
địa ngục; và động Tây Du Ký diễn tả thầy trò Đường Tăng sang Tây Trúc thỉnh
kinh.
Ba tòa động chính đều có vòm là những mây, rồng xoắn xuýt tạo
thành, ngự trên mây có rất nhiều chư Phật, Bồ tát, A Di Đà và các thần tướng
nhà trời. Nếu như trung tâm của các tòa Cửu Long bao giờ cũng là Đức Thích Ca
sơ sinh, nhưng ở các tòa động nơi đây đã được biến thể khác biệt.
Trung tâm của động bên trái là Ngài Đạt Ma tay cầm một chiếc
hài; ở tòa động bên phải là Quán Âm quá hải ngự trên đầu rồng.
Trong chùa còn bảo lưu được hệ thống tượng Phật cổ phong
phú, bài trí thành 7 lớp tượng. Trong cùng của chánh điện có bàn thờ xây cao áp
vào vách, bên trên tọa lạc bộ Tam thế Phật, niên đại thế kỷ XVII.
Bộ tượng Tam thế được tạo tác khá giống nhau, tóc xoắn ốc, mặt
tròn đầy phúc hậu ngồi trong tư thế tham thiền nhập định trên 3 tòa sen. Áo tượng
nhiều nếp gấp chồng lên nhau, phủ kín lòng đùi. Bộ Tam thế được làm từ chất liệu
đất thó, sơn son thếp vàng.
Tòa sen không có đế bệ, kết cấu với 3 tầng cánh sen úp. Phật
điện được đặt tách rời ra phía trước khỏi bộ Tam thế, với 6 lớp thứ tự từ trên
xuống dưới: hàng thứ 1 là tượng A Di Đà; hàng thứ 2 gồm 5 pho tượng (tượng Di Lặc
ở giữa); hàng thứ 3 là pho Quan Âm Nam Hải; Đức Thích Ca niêm hoa tôn trí ở
hàng thứ tư; kế đến tượng Ngọc Hoàng; dưới cùng có tòa Cửu Long.
Bên trong Thượng điện,
thẳng hàng với 5 vị Diêm vương phía bên phải, có các pho tượng vô cùng giá trị:
tượng Thiền sư Vô Ngôn Thông, tượng vua Lý Công Uẩn và thân mẫu của nhà vua.
Thiền sư Vô Ngôn Thông với thân hình mập mạp, đầu trần để lộ
lớp tóc đen rất mỏng, tai to, mũi rộng, trên mép có hàng ria con kiến. Ngài mặc
2 chiếc áo: áo lót bên trong chỉ từ bụng trở xuống, để hở toàn bộ mảng ngực trần;
áo khoác ngoài với rất nhiều nếu gấp uốn lượn đăng đối. Chân Ngài xếp bằng
tròn, tay để trên đùi trái, tay phải cầm phất trần.
Tượng Lý Thái Tổ tạc dáng một ông vua ngồi trên ghế, mình mặc
áo long bào, đầu đội mũ miện, chân đi hài, hai tay nâng ngọc khuê ngang ngực.
Người dân ở đây
còn truyền tụng nhau sự tích về vua Lý Công Uẩn. Tương truyền vào thời Tiền Lê, có câu sấm nói rằng một người
họ Lý dưới chân có chữ Vương sau này sẽ thay thế họ Lê, vua Tiền Lê bèn truy
tìm người như vậy để giết đi.
Bởi dưới chân Lý Công Uẩn có chữ Vương, nên ông phải tìm về
chùa Phù Đổng lẩn trốn để khỏi bị phát hiện. Bấy giờ truyền thừa dòng thiền Vô
Ngôn Thông là Đa Bảo đã giấu kín Công Uẩn trong một cái hang bí mật dưới điện
Phật.
Lấy lý do người tu hành theo thiền phái này là phải học hạnh
im lặng (vô ngôn) nên quan quân đến hỏi câu gì sư cũng không nói. Một đêm, Công
Uẩn đang ngủ say trong hầm thì mơ thấy một vị thần xuất hiện, xưng là Thiên
Vương, tức Thánh Gióng, Thành hoàng của làng Phù Đổng.
Thánh Gióng nói cho Công Uẩn biết rằng sau này sẽ thành đại
sự và Thánh đọc cho câu sấm: "Nhất bát công đức thủy/Tùy duyên hóa thế
gian/Quang Quang trùng chúc chiếu/Một ảnh nhật đăng san".
Lúc đó, Công Uẩn không hiểu bài sấm này nói gì, nhưng vài
trăm năm sau dân gian đã giải được nghĩa rằng, bài thơ dự báo nhà Lý truyền được
8 đời, và sẽ kết thúc vào thời một vị vua có chữ Nhật ở trên chữ Sơn (tức vua
Lý Huệ Tông tên là Sảm).
Ngay sau khi vua Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế và dời đô về
Thăng Long, nhà vua đã cho trùng tu chùa Kiến Sơ và trùng tu đền Phù Đổng cạnh
đó để tôn thờ Đức Thánh Gióng.
Vua cũng nhiều lần đến thăm chùa, và mời Thiền sư Đa Bảo về
Thăng Long bàn luận. Như vậy có thể nhận định rằng, truyền thuyết Thánh Gióng
ra đời từ thời sư Đa Bảo, được vua Lý Thái Tổ phong làm Xung Thiên Đại vương, đến
đời Trần được tôn vinh thành một vị thiên tướng thời Hùng Vương.
Bài, ảnh Chương Phượng
Nguồn: Giác ngộ Online