Cụm di tích lịch sử văn hoá Lưỡng Quán bao gồm chùa Hương Sơn tự, đền và nghè Lưỡng Quán thuộc thôn Lưỡng Quán 1, xã Trung Kiên, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, cách thành phố Vĩnh Yên khoảng 20 km.
Ngày 28/01/2011, Uỷ ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc đã ra 3 quyết
định xếp hạng cụm di tích lịch sử văn
hoá cấp tỉnh, gồm có: Chùa Hương Sơn, được xếp hạng theo quyết định số: 291/QĐ-UBND; đền Lưỡng Quán, được xếp hạng
theo quyết định số: 284/QĐ-UBND; miếu Nghè Lưỡng Quán, được xếp hạng theo quyết
định số: 298/QĐ-UBND. Cùng với đình làng Lưỡng Quán được Uỷ ban nhân dân tỉnh
Vĩnh Phúc cấp bằng di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh ngày 13/02/2004, cụm di
tích này là một quần thể di tích rất phong phú, bao gồm đình, chùa, đền, miếu
nghè và từ chỉ.
- Chùa Lưỡng
Quán
Chùa Lưỡng Quán tên chữ là Hương Sơn tự, nằm trong khuôn
viên của đình làng tại thôn Lưỡng Quán 1. Chùa được xây dựng vào năm thứ 7 đời
vua Lê Hy Tông (1681). Giống như các ngôi chùa khác, Hương Sơn tự là nơi thờ Phật.
Chùa gồm 5 gian tiền đường, 3 gian thượng điện, mặt bằng kiến trúc hình chữ
đinh, với diện tích là 84,5m2.
Trước đây, chùa cũ được xây dựng tại thôn 3 của làng Lưỡng
Quán. Sau Cách mạng tháng Tám, giai đoạn 1945 – 1946, chùa là điểm hội họp và
liên lạc thường xuyên của cán bộ cách mạng trong xã.
Trong kháng chiến chống Pháp, để thực hiện mục tiêu “Tiêu thổ
kháng chiến”, năm 1949 nhân dân cùng du kích đã tháo rỡ và đốt chùa Hương Sơn (cùng với đình Lưỡng
Quán), với quyết tâm không để thực dân Pháp dùng ngôi đình làm căn cứ đóng
quân.
Các tượng Phật, chuông, khánh, hoành phi, đồ thờ tự khác,…được
chuyển lên thờ tại một nhà ngang ở thôn
Lưỡng Quán 1. Đến tháng 6 năm 1999, được sự quan tâm, giúp đỡ của chính
quyền địa phương, nhân dân Lưỡng Quán đã cung đức tiền của, công sức xây dựng lại
ngôi chùa mới hiện nay. Những đồ thờ tự, di vật của ngôi chùa cũ được chuyển về
ngôi chùa mới.
Tượng trong chùa được tạc bằng gỗ mít, các cánh cửa được sơn
son thếp vàng, mái chùa lợp bằng ngói mũi hài hai lớp với ý nghĩa âm dương hoà
hợp. Hiện trong chùa còn một chiếc khánh đồng (tên gọi Hán Việt là Hương Sơn tự
chú tạo khánh); một quả chuông đồng (tên gọi Hán Việt là Hương Sơn tự chung).
Các hiện vật này do người dân trong làng và khách thập phương công đức, đúc vào
năm thứ 19 niên hiệu Minh Mệnh (1838).
- Đền Lưỡng Quán
Đền Lưỡng Quán có tên chữ là Đền Thiện, đền thờ Tam Thánh, tọa
lạc cạnh khuôn viên của đình, với diện tích là 273m2. Đền quay về hướng Nam,
phía trước có ao to người dân quen gọi là ao Đền, với diện tích khoảng 4 sào Bắc
Bộ.
Đền có bố cục mặt bằng kiểu chữ U, gồm: toà nhà ngang thờ Tản
Viên Sơn Thần và Hưng Đạo Đại Vương (Trần triều hiển thánh); hai dải vũ: dải
bên phải thờ Tam toà Thánh Mẫu (Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải), dải
bên trái thờ riêng Mẫu Thượng Ngàn và 12 vị Sơn Trang.
Đền được xây bằng gạch chỉ, tường trát vôi, mái lợp ngói âm,
các loại gỗ được sử dụng đều là gỗ tốt như lim, sến, vàng tâm, với nhiều bức chạm
rồng, phượng rất công phu, mang đậm phong cách truyền thống.
Đền được xây dựng vào năm thứ 2 đời vua Tự Đức (1849). Đây
là di tích duy nhất ở Lưỡng Quán được bảo lưu tương đối nguyên trạng từ khi xây
dựng đến nay.
Hiện đền còn lưu giữ được nhiều đồ tế tự quý, như: 3 bộ ỷ,
cao từ 1,05 đến 1,10m, đều sơn son thếp vàng; ấn và hòm sắc, vốn là những di vật
có từ thời tạo đền. Riêng những tài liệu chữ Hán liên quan đến đền đều bị hỏng
nát vì thường xuyên bị nước lũ sông Hồng xâm hại.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đền là nơi đào hầm bí
mật cất giấu cán bộ hoạt động cách mạng – đội ngũ chỉ đạo của các cuộc mít
tinh, biểu tình chống địch ở vùng ven sông Hồng.
Năm 2005, khu nhà phía bên phải được tu sửa hoàn chỉnh, đồng
thời các khu vực khác cũng được sửa sang, quét vôi lại, làm cổng
khoá để bảo vệ đền. Sang năm 2006, Ban
Quản lý đền tiếp tục cho sửa lại phần mái của đền chính. Hiện nay đền Lưỡng
Quán là công trình có kiến trúc đẹp, mang phong cách truyền thống.
- Miếu Nghè Lưỡng
Quán
Cho đến nay chưa tìm ra nguồn tài liệu nào liên quan đến
ngôi miếu Nghè ở Lưỡng Quán, nhưng người dân trong làng khẳng định đây là công
trình kiến trúc ra đời sớm nhất trong các di tích lịch sử văn hoá của làng.
Miếu Nghè được xây dựng trên khuôn viên đất rộng khoảng
400m2 tại đầu làng của thôn Lưỡng Quán 1, riêng ngôi miếu có diện tích 20m2.
Trong khuôn viên miếu có 1 cây gạo già chưa xác định được độ tuổi, cao chừng
25m, tán lá trải rộng khắp không gian miếu, quanh năm xanh tốt, gốc có cây đa
bao bọc, cây đa to khoảng 10 người ôm mới xuể, đây là cây cổ thụ độc đáo nhất
trong vùng.
Miếu Nghè có vẻ bề ngoài tĩnh lặng, từ cổng vào là tượng 2
ông quan võ đứng canh, đến cửa có tượng 2 ngài hổ trực 2 bên. Thần được thờ ở
miếu Nghè được xác định qua bài văn tế còn lưu truyền đến ngày nay, đó là các vị
thần có công phù hộ cho người dân địa phương được sống ấm no hạnh phúc. Trong
đó có Thánh phụ và Thánh mẫu của vị Thổ Giang Đại Vương. Nội dung bài văn tế
như sau:
Các quan vi hành;
Thánh phụ thánh mẫu;
Tướng quân Thổ Giang, bên tả bên hữu;
Quan Đương niên hành khiển;
Đương cảnh Thành hoàng, Thần linh bản xứ;
Cùng về chứng giám lễ nghi, lễ mỏng tâm thành, lai lâm hiến
hưởng, phù hộ cho dân làng Lưỡng Quán cùng khách thập phương an khang thịnh vượng.
Con cháu đi xa về gần làm ăn tiến tới, học hành tiến bộ”.
Trước Cách mạng tháng Tám – 1945, miếu Nghè Lưỡng Quán thường
xuyên là nơi tập trung của quân du kích tham gia đánh các đồn bốt của Pháp.
Trong kháng chiến chống Mỹ, miếu nghè là trận địa phòng không của dân quân và bộ
đội, nơi giao nhận tân binh lên đường vào Nam chiến đấu.
Hàng năm vào ngày mùng 6 tháng giêng, làng tổ chức rước kiệu
từ đình ra miếu Nghè đón các thần về đình chuẩn bị cho ngày tiệc (tổ chức từ mồng
7 đến mồng 10), đây là dấu hiệu cho thấy mối liên hệ giữa miếu Nghè và đình
làng trong việc thờ Thành hoàng của làng Lưỡng Quán. Và khẳng định miếu Nghè là
bộ phận cấu thành của cụm di tích văn hoá lịch sử của làng Lưỡng Quán. Vào dịp
này người dân trong xã và các vùng lân cận đến làm lễ, cầu mong những điều tốt
đẹp, an lành.
Trải qua nhiều biến cố thăng trầm của lịch sử, cụm di tích
được nhiều thế hệ dân làng tạo dựng và
gìn giữ cho đến ngày nay. Cụm di tích lịch sử văn hóa Lưỡng Quán vừa mang giá
trị trong việc nghiên cứu tín ngưỡng tôn giáo, vừa là nguồn tài liệu của việc
khuyến học, khuyến tài, thể hiện truyền thống trọng người có đức, có tài của
dân tộc ta.
Trong những năm gần đây, được sự giúp đỡ, công đức của các
nhà hảo tâm và du khách thập phương, nhân dân Lưỡng Quán đã trùng tu sửa sang
xây dựng cụm di tích ngày càng khang trang, to đẹp hơn. Hiện nay, cụm di tích
được các cụ người cao tuổi trong làng quản lý, thường xuyên đèn hương, đáp ứng
nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của nhân dân địa phương và khách hành hương./.