Đền - Chùa thôn Nội thuộc xã Nam Thanh, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Chùa có tên chữ: Thần Quang Tây tự, cụm di tích thờ phụng thánh tổ Nguyễn Minh Không, thờ Nam Hải Phạn đại vương, Đinh Chương Tấu đại vương và thờ Phật.
Đền – Chùa Thôn Nội nằm ở đầu xã, giáp với Quốc lộ 21 và đường
giao thông liên xã, liên thôn. Hơn nữa di tích nằm gần với thị trấn Cổ Lễ của
huyện Trực Ninh đây là trung tâm văn hóa của Trực Ninh dân cư đông đúc, đồng thời
cũng là nơi có di tích Chùa Cổ Lễ thờ Quốc Sư Nguyễn Minh Không nên rất thuận lợi
cho phát huy tác dụng của di tích.
Đền - Chùa thôn Nội là nơi thờ Phật, thờ thánh tổ Nguyễn
Minh Không, thờ Nam Hải Phạn đại vương, Đinh Chương Tấu đại vương.
Trong các phong trào cách mạng và kháng chiến chống thực dân
Pháp, đền chùa Nội trở thành địa điểm ghi dấu nhiều sự kiện quan trọng của địa
phương góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.
Đặc biệt trong thời kỳ trước cách mạng tháng 8/1945, giai đoạn
(1936-1939) Đền - Chùa Nội là cơ sở an toàn tin cậy cho nhiều cán bộ, đảng viên
hoạt động và chỉ đạo phong trào kháng chiến. Trong giai đoạn hai năm bốn tháng
(tháng 10/1949 đến tháng 2/1952), Đền - Chùa thôn Nội là nơi nuôi dấu cán bộ
cách mạng về hoạt động tại địa phương. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, Đền - Chùa là nơi sơ tán, trụ sở làm việc của UBND huyện Nam Trực và Trực
Ninh.
Căn cứ vào kết quả khảo sát, nghiên cứu, đánh giá về giá trị
của di tích thì Đền - Chùa thôn Nội là di tích lịch sử.
Nhân vật lịch sử, được thờ phụng ở cụm di tích
1. Chùa thôn Nội thờ Phật và Thánh tổ Nguyễn Minh Không.
Ngoài thờ Phật như các ngôi chùa khác, chùa thôn Nội còn thờ
Thánh tổ Nguyễn Minh Không, Quốc sư triều Lý.
Căn cứ vào thần tích và các tư liệu Hán Nôm cùng truyền thuyết
địa phương, dưới thời Lý, đức Nguyễn Minh Không đã về đất Bách Tính (Nam Hồng
ngày nay) cắm đăng đơm đó, làm nghề chài lưới để sinh sống. Ông thường xuyên
theo dòng Ngọc Giang từ Bách Tính (Nam Hồng) xuống Cổ Lễ (Trực Ninh) để chài lưới,
đến địa phân thôn Nội có một cồn cát cao ông thường dựng lều nghỉ ngơi và phơi
lưới. Sau này gò đất có tên là gò Cánh Khe. Chính tại nơi đây sau này dân làng
dựng chùa thờ Thánh tổ.
Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư tập 1của Nxb KHXH - năm
1998 thì Nguyễn Minh Không tên thật là Nguyễn Chí Thành sinh ngày 14 tháng 8
năm Bính Thìn (1076) tại xã Điềm Xá, phủ Yên Khánh, nay thuộc tỉnh Ninh Bình.
Cha là Nguyễn Tất Đạt nhà nghèo, lấy bà Lại Từ Hiền. Ông bà
sinh được 4 người con trai và 2 người con gái. Khi ông bà sinh 2 con trai đầu
là Nguyễn Chí Cần, Nguyễn Chí Đức thì tại quê nhà liên tiếp mất mùa và dịch bệnh
nên gia đình phải đi kiếm ăn nơi xa… Ngày 14 tháng 9 niên hiệu Thái Minh 5
(1076) người con thứ 3 là Nguyễn Chí Thành đã sinh tại chùa Hán Lý thuộc huyện
Vĩnh Lại (Hải Dương), vài năm sau ông Đạt lại đưa gia đình về sống tại quê
hương với nguồn sống chính là nghề chài lưới.
Gia đình ông Đạt làm ăn ngày càng khá giả nên các con đều được
đi học. Chí Thành là người học giỏi, văn võ song toàn. Ông đã không đi theo con
đường học vấn là thi đỗ ra làm quan mà chuyên sâu nghiên cứu về đạo Phật.
Khi mới xuất gia, Chí Thành theo học nhà sư Giác Không cùng
với Giác Hải. Ông được thầy Giác Không đặt tên hiệu là Không Lộ.
Năm Canh Tý (1120) Minh Không gặp nhà sư Từ Đạo Hạnh ở chùa
Thụy Quế thuộc phủ Quốc Oai. Ba ông Minh Không, Giác Hải, Từ Đạo Hạnh gặp nhau
đã kết nghĩa làm anh em. Các ông lại dùng thuyền đi ngược lên miền sông Đà vào
đất Vân Nam, từ đó qua đất Kim Sỉ tới Miến Điện để vào đất Thiên Trúc.
Năm Thiên Phù thứ tư (1124) Minh Không sang Trung Quốc
khuyên giáo đồng đen về nước. Số đồng này đã được đem tạo Đại nam tứ khí (Tượng
Phật, Hồng Chung, cái đỉnh, cái vạc). Công quả hoàn thành sư làm một bài tán rằng
Lạp phù việt đại hải
Nhất tức vạn lý trình
Tống đồng nhất lang tận
Phấn tý thiên câu lực.
Dịch nghĩa:
Nón nổi vượt biển cả
Một hơi muôn dặm đường
Một đãy sạch đồng Tống
Dang tay sức ngàn ngựa.
Năm 1136, Minh Không đã lên kinh kỳ chữa bệnh hóa hổ cho vua
Lý Thần Tông. Để trả ơn, nhà vua đã phong cho ông là Đại pháp sư kiêm quốc sư,
cho hưởng thực ấp tới hàng vạn khoảnh ruộng.
Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất (1154), Thiền sư Nguyễn Minh
Không tọa hóa ở Nghĩa Xá vạn Giao Thủy nay là xã Xuân Ninh huyện Xuân Trường tỉnh
Nam Định thọ 79 tuổi.
Tại hậu điện Đền - Chùa thôn Nội, thờ thánh tổ Nguyễn Minh
Không là một trong những vị quốc sư thời Lý, đã để lại cho đời nhiều công đức.
2. Đền thôn Nội là nơi thờ Nam Hải Phạn đại vương và phối thờ
Định Chương Tấu đại vương.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” và “Ngọc phả tôn thần Nam Hải
Phạn đại vương - Bản chính Quốc triều lễ bộ” thì thần thế và sự nghiệp của Nam
Hải Phạn đại vương được ghi lại như sau:
Vào cuối triều đại Hùng Vương, ở đất Ba Thục có vợ chồng ông
Thục Hiền và bà Phạm Thị Phương. Ông Hiền là cháu ngoại của vua Hùng lên được
phong làm bộ chủ Ai Lao. Một đêm, Bà Phương mộng thấy mình cưỡi rồng bay lên
thiên đình, được ban cho bảo kiếm, từ đấy mà có thai. Sau 13 tháng, đến ngày
12/2 năm Giáp Ngọ thì bà sinh con trai diệm mạo khôi ngô khác thường. Trong lúc
trở dạ, khí lành đầy phòng, gió hương thơm ngát, ông Hiền liền đặt tên cho con
là Phán. Vì sinh Phán ở chùa lên gọi là Phạn.
Năm Phán 10 tuổi đã biểu hiện trí thông minh sáng suốt, tài
mưu lược, đáng là một bậc anh tài. Khi Thục Hiền mất, Thục Phán kế tiếp cha làm
bộ chủ An Lao (làm chủ quận Ba Thục).
Khi ấy. Hùng Duệ Vương trị vì được 15 năm mà không có người
kế tục thì Thục Phán đem quân sang đánh. Biên cương gửi thư cấp báo, Duệ Vương
nghe tin, liền với con rể là Tản Viên Sơn Thánh đem quân chống lại. Sơn Thánh đặc
biệt có tài thiêng thuật lạ, đánh bại quân Thục Phán.
Thục chủ thua to, chạy về đất Ba Thục. Sau nhiều lần đánh
Hùng Vương thất bại, Thục Phán cố công chiêu nạp kẻ sỹ mưu trí, tập hợp dân lưu
tán, tiến hành tuyển chọn người tài trong thiên hạ chờ ngày rửa nhục, còn Hùng
Duệ Vương lại chủ quan, không sửa sang võ bị, chỉ ham vui chơi.
Đến năm Giáp Thìn (257 TCN), Thục Phán chỉnh binh tiến đánh,
vua Hùng Duệ Vương thua trận. Thục Phán lấy được nước, lên ngôi lấy hiệu là An
Dương Vương, đặt Quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê.
Thục Phán ở ngôi được vài năm, vì kế thừa được nền móng của
Hùng Vương nên nước mạnh, binh cường, lại thường xa giá chu du thiên hạ, đánh
quỷ, phạt hồ mà chính sự vẫn cường thịnh.
Vua cho đắp thành ở Việt Thường rộng nghìn trượng, cuốn tròn
như hình con ốc lên gọi là loa Thành. Thành này cứ đắp xong lại sụt, vua lấy
làm lo. Sau được thầm Kim Quy (Rùa Vàng) giúp đỡ lên việc xây thành mới được
hoàn thành. Thần Kim Quy còn tặng nhà vua móng thiêng. Vua sai bề tôi là Cao Lỗ
làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên là Linh quang kim trảo thần nỏ.
Năm Tân Mão (208 TCN), Triệu Đà đem quân sang xâm lấn. Đà
đóng quân ở núi Tiên Du đánh nhau với vua. Vua đem nỏ thần ra bắn, Đá thua chạy.
Biết vua có nỏ thần, không thể địch nổi, Đà liền lui về giữ núi Vũ Ninh, sai sứ
đến giải hòa. Đá sai con là Trọng Thủy vào hầu, cầu hôn con gái vua là Mỵ Châu,
được vua đồng ý Trọng Thủy dụ Mỵ Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm bẻ gẫy lẫy
nỏ, thay cái khác vào.
Sau đó Trọng Thủy giả vờ về Bắc thăm cha mẹ bảo Mỵ Châu rằng
“Âu tình vợ chồng không thể quên nhau, nếu nhỡ hai nước bất hòa, Nam Bắc cách
biệt, ta lại tới đây thì làm thế nào mà tìm thấy nhau”. Mỵ Châu nói: “Thiếp có
cái nệm gấm lông ngỗng, thường mang theo mình, đi đến đâu thì lông ngỗng rắc ở
chỗ đường rẽ để làm dấu”. Trọng Thủy trở về, báo cho Triệu Đá biết.
Năm Qúy Tỵ (208 TCN), Triệu Đà lại phát binh sang xâm lược,
vua dùng nỏ thần bắn nhưng nỏ hỏng, binh bại. Vua thua chạy, để Mỵ Châu ngồi
trên ngựa, cùng chạy về phía Nam. Trọng Thủy nhận dấu lông ngỗng đuổi theo. Vua
chạy đến bờ biển, hết đường mà không có thuyền, liền gọi rùa vàng đến cứu. Rùa
vàng nổi lên mặt nước, mắng rằng “Kẻ ngồi sau ngựa là giặc đấy, sao không giết
đi”.
Vua rút gươm chém Mỵ Châu, máu chảy loang mặt nước, loài
trai nuốt vào bụng hóa thành hạt minh châu. Vua cùng rùa vàng rẽ nước xuống biển
mà mất, vào ngày 10 tháng 10 Âm Lịch.
Sau khi vua mất thì rất linh thiêng, làm thần biển Nam. Nhân
dân địa phương lập miếu, ghi thần hiệu phụng thờ. Trải qua các đời Lê, Nguyễn đều
có sắc phong cho thần với duệ hiệu là Nam Hải Phạn đại vương.
Ngoài ra, tại đền còn phối thờ Đinh Chương Tấu đại vương,
theo truyền thuyết tại địa phương thì ông cũng cũng là tướng dưới thời Vua
Hùng. Ông đã cùng Nam Hải phạn đại vương đánh giặc Triệu Đà. Sau khi mất, ông
cũng hiển linh, giúp nước cứu dân trong bản xã.
Tại đền còn lưu giữ 2 đạo sắc phong có liên hiệu Khải Định 9
(1924) ghi như sau: “Sắc Nam Định tỉnh, Nam Trực huyện, Nhương Nam xã, Trung
thôn phụng sự Đinh Chương Tấu tôn thần, hộ quốc tí dân nẫm trí linh ứng. Tứ kim
chính trị Trẫm tứ tuần đại khánh, tiết kinh ban bảo chiếu đàn ân, lễ long đăng
trật, trứ phong vi Đoan túc dực bản trung hưng tôn thần, chuẩn kỳ phụng sự thần
kỳ tương hựu bảo ngã lê dân”.
Phong tục lễ hội của cụm di tích
Hàng năm tại Đền – chùa thôn Nội nhà sư, tín đồ phật tử cùng
nhân dân địa phương thường tổ chức 2 kỳ lễ hội tháng 9 liên quan đến các vị thần
thờ tại di tích và các sự kiện của làng, xã.
-Lễ hội tháng 2 (Lễ hội bánh dầy (hội tư văn)): diễn ra vào
các ngày 11,12,12 tháng 2 (âm lịch)
Công tác chuẩn bị lễ hội được diễn ra từ vài ngày trước, dân
làng đã có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt như: đựng cột cờ, trồng kiệu…, rồi chủ
trương, quy mô, nội dung tổ chức đến các bước, cách thức tiến hành. Làng tuyển
chọn người rước kiệu, phải là những người khỏe mạnh và ăn chay, thanh tịnh từ
trước đó nhiều ngày.
Sáng sớm ngày mồng 10, nhà sư cùng các vị cao niên trong
làng làm lễ “Canh y mộc dục”. Đây nghi lễ thay áo cho thiền sư Minh Không, là
nghi lễ hết sức trang nghiêm trong mỗi dịp tổ chức lễ hội. Thường dùng nước nấu
với các vị trầm hương, đinh hương, long não, quế chi…để tắm cho tượng và bao
sái đồ thờ tự. Chiếc áo cũ được xé ra mỗi người lấy một mẩu đưa về làm khước để
trừ mọi rủi ro.
Sáng sớm ngày 11/2, làng tổ chức tế cáo tại đền – chùa với
nghĩa dâng lễ vật lên đức Thánh xin phép cho làng được mở hội, xin thánh chứng
kiến lòng thành của con cháu và dân làng.
Ngày 12 tổ chức rước kiệu quanh thôn. Đi đầu đám rước là người
cầm cơ hội rồi đến hai hàng cờ ngũ sắc, tiếp đến là chiêng, trống, bát biểu và phường bát âm. Sau
hai hàng bát biểu là kiệu hương án, bình trầm khói hương, rồi đến kiệu long
đình, kiệu thánh tổ, kiệu Phật…, hai bên kiệu còn có cờ, quạt vải, tàn lọng.
Theo sau là các vị chức sắc, dân làng và khách thập phương
tham dự. Đoàn rước kiệu dài với không khí vừa trang nghiêm vừa sôi động, những
âm thanh của chiêng, trống hòa với tiếng kèn tiếng nhị và tiếng hô, gọi của người
chỉ huy khiêng kiệu khiến cho ngày hội thêm tưng bừng náo nhiệt, sau khi đám rước
về đến đền – chùa các cụ cao liên tổ chức văn tế chính uy nghiêm, ôn lại truyền
thống và công lao của hai vị Thành hoàng của đức thánh tổ.
Theo tích xưa thì nhân dân địa phương chuẩn bị lễ vật dâng
Thánh, còn phần tế lễ thì do Vua quan triều đình tế. Văn tế còn được lưu giữ tại
di tích như sau:
“Kỳ trúc bản thôn,
tiên hiền tiên đạt, tiên thế tiên hiền, lục trung đức hạnh, trưởng thượng văn
chương, ấu học tráng hành, công phu diện dụng, công thành danh toại, sự nghiệp
hiển dương, tư trục xuân thu trúc tế, phi nhung kiền tương, thượng kỳ giác
cách, từ dĩ thượng khang, phục truyền tự kế, địa cửu thiên trường, thượng
hương”.
Sau khi đọc văn tế, dân làng và khách thập phương dâng hương
hoa, lễ vật bánh dầy lên Thánh tổ, cầu cho làng xóm yên vui, mùa màng tươi tốt,
nhà nhà an khang thịnh vượng, con cái trưởng thành, anh em hòa thuận…
Công việc làm bánh dầy dâng Thánh này được chuẩn bị từ trước
rất công phu, ngay từ khi thu hoạch vụ mùa bà con đã chọn ra loại nếp tốt để
riêng sau đó đưa nếp ấy ra giã thật trắng, nhặt hết những hạt lép, hạt đen rồi
đưa đếngóp cho giáp của mình.
Theo quy định nhà có bao nhiêu con trai phải góp bấy nhiêu đấu
gạo, đến nay không còn tục đó nhưng dân làng vẫn tập chung ra đền - chùa để
cùng nhau vui làm bánh dầy, người đăng cai làm việc thánh trong thời gian hành
sự phải chay tịnh.
Nước làm bánh phải thật trong, sạch sẽ, việc đồ sôi cũng phải
thật khéo để cối khỏi xê dịch vaif những nhịp chày giã nhanh giã mạnh, người ta
chôn cối sâu xuống một đoạn nhưng không quá sát mặt đất cho đảm bảo vệ sinh,
chày làm vằng tre non nạo hết tinh, nhúng nước, xoa trứng vào cho khỏi dính,
người được giao nhiệm vụ bắt bánh cũng phải xoa dầu lạc thật kỹ để dầu thấm sâu
vào da mới không bị dính.
Ngày 13 tổ chức lễ tạ
và tổng kết lễ hội diễn ra tại di tích.
Lễ hội tháng 9 (lễ hội kỷ niệm ngày sinh của Đức Thánh Tổ
Nguyễn Minh Không)
Diễn ra từ ngày 13 đến
15 tháng 9. Trong những ngày diễn ra lễ hội, ngoài các nghi thức dâng hương, tế
lễ còn có nhiều sinh hoạt văn hóa, trò chơi dân gianđặc sắc như bơi trải, kéo
co, đá bóng, tổ tôm…
Khảo tả di tích
1. Lịch sử xây dựng:
Căn cứ vào tấm bia có tên “Hưng tạo Thần Quang Tây Tự bi ký”
dựng trước cổng chùa, được soạn vào triều Lê niên hiệu Đức Long 7 (1635) thì:
“Chùa Thần Quang Tây Tự vốn ở Trung Nội, sau ở Thôn Hậu Nội. Từng nghe Chùa là
nền móng của đức nhân, đức thấm nhuần vào thân, ngày trước chùa Thần Quang Tây
vốn thờ Thiền sư họ Dương, giáp nước linh thiêng, sắc triều Lý ở Tê Trì được
ban ruộng, đặc tổng Dũng Nhuệ, Tĩnh Hải làm tôi tớ, công lao còn mãi muôn đời,
hàng năm thờ phụng.
Tuy thời trước đã sủa sang cảnh này nhưng quy mô còn nhỏ bé,
nay người hiền đời sau lại muốn xây dựng to lớn hơn, có thể nhân từ nhỏ mà làm
thành lớn. Nên vào ngày 15 tháng giêng năm Giáp Tý niên hiệu Vĩnh Tộ 6 (1624) họp
thợ khởi công, nhân theo nếp cũ bắt đầu dựng chùa. Bên ngoài, địa thế vững
chãi, bên trong lầu gác cao ráo, có tòa cúng phật, có tòa dâng hương, một tòa
tượng thánh, tiền đường nối liền, ở ngoài có hai cổng ra vào”.
Trải qua thăng trầm của thời gian, sự tàn phá của chiến
tranh chùa đã được nhiều lần tu sửa năm 1952, 1986 sửa tiền đường, năm 2006 tiền
đường được xây dựng lại với 5 gian bằng bê tông cốt sắt.
Gác chuông cũng được xây dựng mới với 3 tầng lầu vào năm
2000.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ xâm lược (1968 - 1972),
Đền – Phủ được xây dựng làm trụ sở làm việc của Huyện Nam Ninh, năm 1988 huyện
Nam Ninh chuyển đi, đến năm 1999 ngôi đền được phục dựng lại như ngày nay. Ngôi
phủ được phục dựng vào năm 1990 với 1 tòa, đến năm 2008 được tôn tạo to đẹp,
khang trang như ngày nay.
2. Kiến trúc di tích
Đền – Chùa thôn Nội được xây dựng quya theo hướng tây trên một
khu đất rộng 3 mẫu Bắc bộ, phía đông giáp nhà dân, phía Nam giáp cánh đồng lúa,
phía bắc giáp chùa cũ. Toàn bộ khuân viên di tích là tường bao xây cao 2m, sân
đền – chùa rộng khoảng 360m2, đổ bê tông bằng phẳng. Di tích gồm các hạng mục
công trình: Tam quan, đền, chùa, phủ.
Đền – chùa thôn Nội được xây dựng theo hướng Tây trên một
khu đất rộng khoảng 3 mẫu Bắc bộ, phía đông giáp nhà dân, phía Nam giáp cánh đồng
lúa, phía Bắc giáp chùa cũ. Toàn bộ khuân viên di tích là tường bao xây cao 2m,
sân đền chùa rộng khoảng 360m2. Di tích gồm hạng mục công trình: Tam quan, đền,
chùa, phủ.
Công trình kiến trúc chùa: Tam quan có 3 tầng kiến trúc theo
kiểu chồng diêm, mỗi tầng có ba của được xây dựng cuốn vòm theo kiểu cuốn vành
mai, tầng 1 và tầng 2 đều có lan can trang trí họa tiết chữ triện, tầng trên
cùng đắp mái giả ngói và các góc đều tạo thành các đầu đao uốn cong lên, tam
quan đồng thời cũng còn là gác chuông, tại tầng 2 có treo 1 quả chuông đồng có
chiều cao 1m đường kính đáy 0,60m, bên cạnh cổng chính là hai cổng phụ kiến
trúc kiểu chồng diêm, phần cổng đẳng nhấn nổi chữ Hán “Quảng đại môn” và “Từ bi
môn”, xây cuốn nhỏ hơn trên mái lợp ngói ống, đầu đao trang trí hoa văn chữ triệu,
vào cổng qua một sân rộng rãi là vào tới chùa.
Chùa được xây dựng ở chính giữa theo kiểu “Tiền chữ nhất hậu
chữ đinh” với các hạng mục tiền đường, trung đường, tam bảo và cung cấm.
Mái tiền đường mái gắn ngói nam, bờ nóc trang trí họa tiết
hoa mai, hai đầu hồi xây bờ bảng, hệ thống lan can trên hiên tiền đường xây bổ
trụ đầu đắp họa tiết hoa sen, lan can đắp họa tiết triệu tàu lá dắt, chính giữa
đắp cuốn thư trên nhất nổi 4 chữ hán “Thần Quang Tây tự”.
Tòa tiền đường chia thành 5 gian, hai gian đầu hồi xây kín
có trang trí hệ thống cửa thông gió hình chữ triệu, 3 gian của giữa xây cuốn bổ
trụ để làm của ra vào. Qua một hiên rộng khoảng 1,70m là vào tới tòa tiền đường.
Tòa điện được lắp bộ cửa “bức bàn” bằng gỗ lim, chân quay.
Tòa tiền đường gồm 5 gian có kích thước dài 12,3m, rộng
5.95m kết cấu kiểu kèo cầu quá giang bằng bê tông cốt thép, nền tiền đường được
tôn cao hơn mặt sân khoảng 0,40m lát gạch bát tràng, phía trước có xây bậc lên
xuống, trong tòa tiền đường, toàn bộ phần mái được nâng đỡ bởi hệ thống cột trụ
(gồm 8 cột) xât bằng gạch, kích thước cạnh 0,70m x 0,60m.
Trung tâm tòa Tiền đường 3 gian 2 trái có kích thước đăng đối.
Chính giữa là Ban thờ công đồng, hai gian bên là hai pho tượng Hộ pháp, đây là
phong cách bài trí truyền thống của Chùa Việt
Tòa trung đường gồm 5 gian, có kích thước dài 12,30m, rộng
5,95m, bộ khung bằng gỗ lim với các vì nóc, vì nách và mái hiên.
Vì nóc: trong kiến trúc gỗ của công trình, bộ vì nóc được
gia công theo kiểu câu đầu, mê cốn, trụ non, các ván mê đều để trơn, khoét
lòng, soi chỉ. Phía dưới ván mê là hệ thống câu đầu, một đầu của cấu kiện ghép
mộng với các cột cái tạo đấu vuông có kích thước 0,12m đặt trên cột đá có kích
thước dài 2,60m, một đầu nối với trụ non tỳ lực xuống hệ thống xà đinh có kích
thước dài 3m. Trên thân các cột đá trang trí họa tiết hoa cúc dây.
Vì nách được gia công kiểu vá mê. Trên các mê này được trang
trí họa tiết triệu tàu lá dắt.
Vì hiên được cấu tạo bởi hệ thống bảy tiền, thân bảy ghép mộng
vào cột hiên, một đầu tỳ vào dạ xà nách, mọt đầu vươn ra đỡ tàu mái phía trước,
trên thân bảy trang trí họa tiết rồng hóa.
Tại hai gian đầu hồi của tòa trung đường là ban thờ Thánh Hiền
và Đức Ông.
Nối liền với tòa trung đường bằng kỹ thuật giao mái bắt vần
là 1 gian Tam bảo quay dọc, có kích thước dài 8,80m, rộng 5,25m, mái lợp ngói
nam, nền nát gạch đỏ, bộ khung bằng gỗ lim, kết cấu tương tự với tòa trung đường.
Ván mê tại tòa tam bảo được trang trí họa tiết cúc hóa long
và triệu tàu lá dắt, đặc biệt tại ván bưng nối từ xà dọc thượng tới xà dọc hạ
được trang trí mặt hổ phù.
Mặc dù các mảng chạm khắc trên đều mang phong cách nghệ thuật
thời Nguyễn song với bố cục chặt chẽ đã góp phần làm tăng thêm giá trị nghệ thuật
cho công trình kiến trúc, tại đây có bài trí 6 lớp tượng Phật với 11 pho tượng
lớn nhỏ được sơn son thiếp vàng.
Tam bảo và tòa cung cấm làm theo kiểu trùng thềm. Hậu cung
ngăn cách với Trung đường bằng bộ cửa bức bàn gỗ lim. Tòa cung cấm có thiết kế
kiếu long đình, bày khám và tượng thờ Đức Thánh tổ. Thần tượng trong tư thế ngồi
buông chân, khuân mặt hiền từ, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII – XVIII.
Qua một sân nhỏ là nhà tổ, nhà tổ trước là 5 gian nhà gỗ,
sau được xây dựng lại vào năm 1975 nhà tổ kiến trúc theo kiểu chữ “nhất”, ba
gian xây cuốn vòm. Nơi đây đặt ban thờ Sư tổ Bồ Đề Đạt Ma và các vị tổ trụ trì
của chùa.
3. Đền:
Ngôi đền được xây dựng bên phải của chùa theo kiểu chữ “nhị”.
Bờ nóc tiền đường được đắp nề trang trí lưỡng long quán nhật, hai đầu hồi xây bờ
bảng. Tiền đường ba gian xây bổ trụ, cuốn vành mai, hai trụ biểu đầu hồi đỉnh đắp
nghê chầu, trụ vuông, trang trí bằng câu đối bằng chữ Hán đắp nổi, chân thắt cổ
bồng. Tiền đường có hiên rộng 1,75m, bộ cửa ván bưng bằng gỗ lim chân quay.
Tiền đường dài 6,20m, rộng 4,20m được chia thành 3 gian,
gian giữa có kích thước 2,36m, hai gian bên có kích thước 1,92m, xây dựng trụ
cuốn vành mai, mái đền lắp đặt trên hệ thống trụ gạch, soi chỉ tạo đường nét mềm
mại, thanh thoát. Nền nhà tôn cao hơn mặt sân 0,42m lát gạch đỏ với bậc lên xuống
ngoài hiên.
Trung đường dài 6,20m, rộng 4,20m, gồm 3 gian bổ trụ cuốn
vành mai, mái và nền tương tự tiền đường, gian chính điện là ban thờ, long ngai
và bài vị của hai vị thành hoàng làng: Nam Hải Phạn đại vương và Định Chương Tấu
đại vương.
4. Phủ:
Phủ nằm phía trái của chùa theo hình chữ “tam”. Mái tiền đường
gắn ngói Nam, bờ nóc tiền đường trang trí họa tiết lưỡng long quán nhật, hai đầu
hồi xây bờ bảng.
Tiền đường ba gian xây bổ trụ, cuốn vành mai, hai trụ biểu đầu
hồi tạo lồng đèn đắp họa tiết hoa sen, trụ hình vuông được trang trí câu đối bằng
chữ Hán đắp nổi, chân thắt cổ bồng. Tiền đường có hiên rộng 1,85m, bộ cửa “ván
bưng” gỗ lim chân quay.
Tiền đường dài 7,40m, rộng 3,65m được chia thành 3 gian, xây
bổ trụ cuốn vành mai. Mái Phủ lắp đặt trên trụ gạch, soi chỉ tạo đường nét mềm
mại, thanh thoát, nền nhà tôn cao hơn mặt sân 0,42m, lát gạch đỏ, bậc cửa lên
xuống trước hiên.
Trung đường dài 7,40m, rộng 4,65m, 3 gian xây bổ trụ cuốn
vành mai, mái và nền bố trí tương tự như tiền đường.
Hậu cung có kích thước dài 7,40m, rộng 2,60m, hia thành 3
gian xây kiểu chồng lâu, gian giữa Hậu cung là ban thờ Tam tòa Thánh Mẫu, bên
phải là động Sơn Trang.
Các cổ vật còn lưu giữ
Ngoài vẻ đẹp và kiến trúc nghệ thuật, Đền – Chùa thôn Nội
còn lưu giữ được những hiện vật có giá trị:
- Tượng Thánh Tổ Nguyễn Minh Không (Mã số: ĐCTN.CC.02): tạc
trong tư thế ngồi buông chân trên ngai tại gian giữa tòa hậu cung của chùa với
kích thước cao 1,20m, đầu vấn tóc, gương mặt hiền từ, mình cởi trần đóng khố,
mang đúng phong cách của người xuất thân làm nghề trài lưới, hai tay đặt trên gối,
những đường nét chạm khắc trên tượng mềm mại, tinh xảo mang đặc trưng phong
cách nghệ thuật thể kỷ XVII – XVIII.
- Ngai và bài vị thờ Nam Hải Phạn đại vương và Định Chương Tấu
đại vương (Mã số: ĐCTN.HC.03,04): Đặt tại gian giữa hậu cung của đền, bài vị có
kích thước cao 0,80m, được gia công tỷ mỉ, các đường diềm xung quanh tạo các lớp
mây, đao mác lá hỏa, phần đỉnh trang trí lưỡng long chầu nguyệt.
Trên bài vị khắc chữ Hán, toàn bộ hiện vật được sơn son,
mang đặc trưng phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê, thế kỷ XVII-XVIII, ngay thờ
có kích thước cao 1m, được gia công tỉ mỉ, tay ngai chạm hình đầu rồng, phần trụ
ngai phía trên, dưới chạm con tiện, phần giữa chạm rồng, lưng ngai chia thành
các ô chạm khắc đề tài rồng, hổ phù, diềm lưng ngai chạm rồng, bệ ngai làm theo
kiểu chân quỳ dạ cá, ba mặt chạm hổ phù, trên bệ ngai chia làm ba ô, đục thông
phong các đề tài hoa sen, rồng chầu…Những đường nét chạm khắc tinh xảo, khỏe
khoắn mang phong cách nghệ thuật thời Hậu Lê thế ký XVII-XVIII.
- Bia đá (Mã số: ĐCTN.SV.01): Hiện tại chùa còn lưu giữ được
tấm bia có kích thước cao 1,15m, rộng 0,73m, dài 0,17m. Bia khắc 4 mặt. Mặt thứ
nhất trán bia chạm lưỡng long chầu nguyệt, đục nổi 8 chữ “Hưng tạo Thần Quang
Tây Tự bị ký” diềm bia chạm họa tiết lưỡng long chầu chữ “Phúc”, phái dưới trạm
lưỡng long chầu nhật, thân bia gồm 26 dòng, trung bình có 24 chữ Hán, nội dung
văn bia nói về việc xây dựng chùa.
Mặt thứ 2 diềm bia chạm đề tài rồng, cúc, sen, dưới đế chạm
đề tài sen, cúc, thân bia gồm 26 dòng, trung bình có 24 chữ Hán, nội dung bia
ghi việc công đức dựng chùa. Hai mặt bên ghi việc soạn khắc bia và người soạn
khắc, bia được soạn khắc triều Lê niên hiệu Đức Long 7 (1635).
- Bia đá (Mã số: ĐCTN.SV.03): đặt trước tòa bái đường của
chùa có kích thước cao 0,55m, rộng 0,48m, dài 0,13m, trán bia khắc 4 chữ Hán
“Thạch cước bi ký” diềm bia chạm khắc họa tiết lưỡng long chầu nhật, hoa lá. Nội
dung văn bia nói về dấu chân đá của Đức Thánh Tổ Nguyễn Minh Không, bia được soạn
khắc niên hiệu Khải Định thập niên (1925).
Giá trị lịch sử, văn hóa, nghệ thuật của di tích
Đền - Chùa thôn Nội là nơi thờ Phật, thờ Thánh Tổ Nguyễn
Minh Không một vị Quốc sư thời Lý, là người đắc đạo, giỏi pháp thuật, có thể
hàng long phục hổ, thành hoàng làng Nam Hải Phạn đại vương tức Thục Phán An Dương
Vương, vị vua có công xây dựng đất nước Âu Lạc thành một quốc gia hùng cường.
Sau khi xuống biển, ngài rất linh thiêng, thường hiển linh
phò giúp nhân dân trong công cuộc xây dựng làng xóm, quê hương. Định Chương Tấu
đại vương là dũng tướng, có công phò giúp Nam Hải Phạn đại vương trong cuộc chiến
với Triệu Đà.
Trong các phong trào cách mạng và kháng chiến chống thực dân
Pháp Đền - Chùa Nội trở thành địa điểm ghi dấu nhiều sự kiện quan trọng của địa
phương góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc.
Đặc biệt trong giai đoạn tiền khởi nghĩa (1936-1939) đền -
chùa thôn Nội là cơ sở an toàn tin cậy cho nhiều cán bộ, đảng viên về hoạt động
và chỉ đạo phong trào kháng chiến.
Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp (tháng
10/1949 đến tháng 11/1952), đền - chùa thôn Nội là nơi nuôi giấu cán bộ cách mạng
về hoạt động tại địa phương.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước đền - chùa thôn
Nội là nơi sơ tán trụ sở làm việc của UBND huyện Nam Trực và Trực Ninh (huyện
Nam Ninh cũ).
Công trình kiến trúc đền - chùa thôn Nội tồn tại đến ngày
nay vận bảo lưu được những giá trị kiến trúc truyền thống, tại di tích còn lưu
giữ được một số di vật, cổ có giá trị như: bia đá, tượng thờ, trống đồng… thể
hiện sự nâng niu, trân trọng và quyết tâm bảo tồn những di sản văn hóa quý giá
của cha ông để lại.
Bên cạnh những giá trị về lịch sử và kiến trúc nghệ thuật,
di tích đền – chùa thôn Nội còn là nơi lưu giữ được lễ hội truyền thống diễn ra
vào mùa xuân và mùa thu. Qua mỗi kỳ lễ hội, người dân địa phương lại có dịp hướng
về cội nguồn để tri ân công đức những người có công và cùng nhau góp sức xây dựng
quê hương, làng xóm. Đó là nét đẹp văn hóa dân gian đặc sắc được lưu truyền ở mọt
làng quê vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng.
Từ những giá trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa khoa học và
thẩm mỹ trên đây, chính quyền và nhân dân xã Nam Thanh đã đề nghị sở Vưn Hóa thể
thao và du lịch, UBND tỉnh Nam Định đã xếp hạng Đền - Chùa thôn Nội là di tích
lịch sử cấp tỉnh theo Quyết định số 41/QĐ-UBND ngày 08/ 01/2013, tạo điều kiện
thuận lợi cho nhân dân địa phương bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị của
cụm di tích lịch sử.
Nguồn: Cổng thông tin điện tử Huyện Nam Trực