Đền Chóa thuộc làng Chân Lạc, tức làng Kẻ Chóa, thuộc xã Dũng Liệt, huyện Yên Phong được xây dựng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), thờ 3 vị thủy thần là: Thủy tộc long quân, Hoàng Hà long khiết phu nhân và Tam Giang công chúa.
Từ khi thành lập đến nay, đền đã qua một vài lần trùng tu
vào thời Nguyễn. Ngôi đền hiện nay nằm trên một khu đất cao ở giữa làng, bên cạnh
là đình, chùa, miếu, tạo thành một quần thể di tích cổ kính của làng quê.
Đền Chóa, thờ phụng bà Chúa Dâu tằm
Ngôi đền ở làng Chân Lạc, tức làng Kẻ Chóa, thuộc xã Dũng Liệt,
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Đền Chóa được nhiều người biết đến với truyền
thuyết và tín ngưỡng thờ Bà chúa Dâu tằm cùng nghi lễ cầu đảo (cầu mưa) nổi tiếng
cách đây hàng nghìn năm.
Lịch sử
Đền được xây dựng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVIII), giá trị
nổi bật nhất của đền Chóa được biết đến
thông qua các thư tịch cổ như Đại Nam nhất thống chí, Bắc Ninh địa dư chí, Bắc
Ninh toàn tập dư địa chí đều ghi chép tín ngưỡng thờ phụng tại đền Chóa là: “Đền thơ 3 vị thủy thần ở Chân Hộ và Hộ Trung (huyện
Yên Phong, Bắc Ninh). Một vị là Thủy tộc Long quân, một vị là Hoàng Hà long khiết
Phu nhân và một là Tam Giang công chúa”.
Xưa kia đền Chóa nằm trên một khu đất cao, xưa gọi là rừng
Điện có rất nhiều cây gỗ quý. Cách đây vài trăm năm, một vị quan đã hưng công
cho xây dựng lại khu di tích đền Chóa với nhiều tòa nhà khác nhau: Thượng điện,
Trung điện, Hạ điện, cộng với hai dãy nhà Hữu vu, Tả vu, mỗi tòa có ba gian hai
chái với kiến trúc cổ mái ngói đao cong từ thế kỷ thứ XVIII đã tạo thành một quần
thể di tích lưu giữ lại vẻ cổ kính của vùng quê Kinh Bắc xưa.
Từ khi thành lập đến nay, đền đã qua một vài lần trùng tu
vào thời Nguyễn. Ngôi đền hiện nay nằm cạnh đình, chùa, miếu, tạo thành một quần
thể di tích cổ kính của làng quê.
Kiến trúc
Trước đền có sân, hồ bán nguyệt rộng, cây cổ thụ bao quanh.
Khu đền chính bao gồm Thượng điện, Trung điện, Hạ điện. Mỗi tòa 3 gian 2 chái
mái ngói đao cong, nằm trên một trục chính giữa theo kiểu chữ 三Tam.
Hai bên là dãy Tả vu, Hữu vu cũng 3 gian 2 chái mái ngói đao
cong.
Di vật lịch sử
Trong đền còn bảo lưu được nhiều cổ vật quý hiếm như: Tượng
“Long Vương” mặt người mình rồng, 19 đạo sắc phong (sắc sớm nhất năm 1740, sắc
muộn nhất năm 1924), 2 bia đá (được khắc năm 1704 và 1714), hoành phi, câu đối,
hương án, sập đá hạc gỗ, phỗng gỗ, chấp kích, bát bửu… không những là chứng
tích của ngôi đền trong lịch sử, mà còn là những tác phẩm đặc sắc của hai thời
Lê-Nguyễn của vùng đất Kinh Bắc xưa.
Hàng năm, hội đền làng Chóa (thôn Chân Lạc, xã Dũng Liệt,
huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) diễn ra vào ngày mùng 6 tháng Giêng (Âm lịch).
Ngôi đền 'cầu mưa'
Tương truyền thời cổ xưa, Bà chúa Dâu tằm vốn là Công chúa
con vua Thủy tề (Long Vương) hàng năm vào dịp đầu xuân vẫn hay du ngoạn dọc
theo dòng sông Cầu để ngoạn cảnh xuân.
Khi đến vùng này, thấy những cánh đồng tươi tốt, đất đai màu
mỡ nhưng người dân vẫn phải chịu cảnh lam lũ cực nhọc nên Bà đã dừng lại và
truyền dạy cho dân làng nghề trồng dâu, nuôi tằm dệt vải, biết đoàn kết nhau lại
để chống thú dữ, làm nhà để ở, đóng thuyền để đi lại và bắt cá trên sông.
'Sau nhiều năm sống với dân làng, đến ngày phải trở về Bà đã
Hóa tại vị trí đền Chóa bây giờ, khi ấy hồ nước trước cửa đền vẫn là một nhánh
của dòng sông Cầu. Tưởng nhớ công lao, ân đức của Bà, dân làng đã lập đền thờ
phụng, hương khói quanh năm, lấy uy đức của Bà làm mẫu mực để duy trì nền nếp,
phong tục, tập quán truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Sau này, trải qua nhiều triều đại đã sắc phong tôn vinh bà
là Thánh mẫu nương thần hay nhiều người vẫn gọi là Bà chúa dâu tằm, như một
nhân vật tối linh, tối thượng'.
Vào năm hạn hán, dân làng Chóa tổ chức lễ cầu đảo tại đền.
Ngôi đền Chóa thờ Bà chúa Dâu tằm nổi tiếng với nghi thức cầu
đảo (cầu mưa) ở vùng Kinh Bắc xưa.
Nghi thức tế lễ Thần được tiến hành trong ba ngày liền,
không mưa lại ba ngày tiếp theo. Nếu trời vẫn không mưa thì dân làng tổ chức “Tắm
kiệu”: rước kiệu Thần từ đền Chóa bằng thuyền vượt sông Cầu sang đền Vường sát
bờ sông (thuộc xã Châu Minh, Hiệp Hòa, Bắc Giang) để tế lễ Thần ở đây.
Khi thuyền qua sông, người ta còn dùng gáo đồng múc nước dội
lên kiệu gọi là tắm kiệu. Sau khi tế lễ tại đền Vường mà trời vẫn không mưa,
dân làng lại tổ chức “Rước bơi”: Kiệu Thần được rước đến bến Đình (thuộc thôn Lạc
Trung) để thi bơi chải. Đến nơi kiệu được đặt trên bờ, mặt hướng ra sông.
Dưới sông 3 thuyền chải của 60 trai tráng làng Chóa thi bơi.
Trên bờ dân làng đánh trống cái liên hồi để thúc dục các thuyền bơi. Dưới nước
các thuyền bơi quanh một vòng tại khúc sông bến Đình.
Sau ba ngày rước bơi mà trời vẫn không mưa thì nhân dân ở
đây tổ chức “Rước huyện”, tức đồng loạt các làng ven sông Cầu như Chóa, Xà… rước
kiệu Thần xuống đền Đông Yên (xã Đông Phong) để tổ chức tế lễ cầu đảo.
Những bí mật và nguyên tắc “bất di bất dịch” thờ phụng tại đền
Theo tục lệ từ xưa, hàng năm dân làng sẽ chọn ra hai người
được gọi là hai ông 'quan đám' từ 55 - 65 tuổi ra để trông coi đền và 'hầu
Ngài'. Những người được chọn ngoài sức khỏe tốt còn phải có đạo đức tốt, gia
đình êm ấm, hòa thuận và nhất là không có tang ma, có lối sống chuẩn mực, không
có điều tiếng gì ở trong làng ngoài xã. Hai người được chọn có tên lần lượt là
ông đám nhất và ông đám nhì sẽ thay mặt dân làng ra 'hầu Ngài' một năm, đến năm
sau dân làng lại chọn hai người khác.
Về những nguyên tắc khi ra trông coi đền Chóa từ ngàn xưa
truyền lại thì trong thời gian các ông đám 'hầu Ngài' thì dù gia đình có việc
hiểu, việc hỉ cũng không được về vì khi đã tâm nguyện ra 'hầu Ngài' thì chỉ
toàn tâm, toàn ý ở đền, không được đi đâu.
Đặc biệt, những kiêng khem bắt buộc đối với hai ông đám
trong việc sinh hoạt hàng ngày cũng phải tuân theo một nguyên tắc bất di bất dịch
như hàng ngày dù đông hay hè, các ông đám phải tắm bằng nước gừng tươi ít nhất
một lần; không được ăn hành tỏi trong suốt thời gian trông coi đền; mỗi khi đi
vệ sinh xong phải rửa tay bằng nước gừng tươi để đảm bảo sự sạch sẽ, tinh khiết
khi 'hầu Ngài'.
Ngôi miếu Hạ Mã (hay còn gọi là miếu Bà Cô) ngay nằm ngay lối
vào đền Chóa và được một cây sanh cổ thụ vài trăm năm tuổi bao bọc bên ngoài.
Người hầu đám hàng ngày phải dậy từ 3h sáng để quét dọn, lau
chùi để trong ba cung chính và ngoài sân của đền lúc nào cũng phải sạch sẽ, đến
lúc mặt trời lên là công việc phải hoàn tất để người dân và du khách thập
phương đến còn hướng dẫn thăm và sắp lễ giúp.
Đền Chóa có ba tòa nhà gồm Thượng điện, Trung điện và Hạ điện.
Đối với du khách thập phương hoặc người dân trong làng đến thăm đền Chóa thường
chỉ được phép vào Hạ điện và Trung điện là cùng còn tuyệt đối không được bước
chân tới Thượng điện mà chỉ các ông đám được dân làng lựa chọn ra để “hầu Ngài”
là được phép vào tới Thượng điện.
Chính vì lẽ đó nên phía trong tòa Thượng điện của đền Chóa
có những gì thì người dân trong làng cũng như du khách thập phương không ai được
biết và đó chính là những bí mật mà chỉ các ông đám mới nắm được.
Lệ này đã tồn tại hàng trăm năm nay đối với những người được
lựa chọn vào trông coi đền. Hết một năm trông đền và hầu Ngài, hai ông đám trước
hầu Ngài kể lại cho hai ông đám sau, tuyệt đối không kể cho người khác nghe, kể
cả con cái ruột thịt cũng không được biết trong Thượng điện của đền Chóa có gì.
Nói về tục lệ này, người dân thôn Chân Lạc cho biết trong
tòa Thượng điện có gì đến nay vẫn là bí mật chưa có lời giải bởi bất kể nam phụ,
lão ấu trong làng đều không ai dám hỏi hoặc phỏng đoán bên trong có gì vì sợ
các Ngài quở trách, giáng tội, còn đối với các ông đám trông coi đền thì đó là
những bí mật “sống để bụng, chết mang theo”.
Một trong những điều đặc biệt tại đền Chóa là ngay trước lối
vào đền, trước hồ bán nguyệt rộng là một ngôi miếu cổ nằm lọt thỏm trong bộ rễ
của một cây sanh cổ thụ. Ngôi miếu này đã có từ rất lâu đời và có tên gọi là miếu Bà Cô hay miếu
Hạ Mã. Ngày trước, từ quan lớn đến dân thường khi vào đền Chóa, lúc đi qua miếu
Hạ Mã đều phải xuống ngựa đi bộ và phải ngả nón, mũ cúi mặt chào như một cách
thể hiện sự thành kinh đối với các Ngài.