Đền Cổ Lương, Hàng Buồm có từ đầu thế kỷ 18 và là một ngôi đền thờ hai vị nam thần Phổ Tế Đại vương, Nam Hải Đại vương. Thời Nguyễn, khi dân làng rước tượng công chúa Liễu Hạnh về thờ làm thành hoàng thì trong đền mới xây điện Mẫu và là nơi thờ phụng Thánh Mẫu Liễu Hạnh.
Đền Cổ Lương thờ công chúa Liễu Hạnh tức Mẫu Liễu, ngày nay ở
ngõ 28 Nguyễn Văn Siêu, phường Hàng Buồm, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Đền ở trên đất
thôn Cổ Lương cũ. Trong đền hiện còn tấm bia “Cổ Lương hương đình ký” dựng năm
Tự Đức thứ 3 (1879), văn do tiến sĩ Vũ Nhị (hiệu Đông Hầu, đốc học Hà Nội) soạn
thảo, chữ Hán do Nguyễn Mặc Khanh viết; có đoạn như sau:
“Thôn Cổ Lương tiếp giáp mé sông Nhị Hà, dân cư là người
làng Khúc Thủy, đền thờ hai vị chính thần là Phổ Tế và Nam Hải. Công lao sự
nghiệp của thần trong tự điển có ghi chép rõ ràng. Nhưng ngôi đền lúc mới xây dựng
thì lợp cỏ gianh đơn sơ. Hơn trăm năm dân cư ca mừng tụ họp ở đây mà đền thần vẫn
còn như cũ… Khi đó vị lý trưởng họ Đào tên là Đằng mới tiếp nối ý cha để đứng
ra hưng công xây lại đình mới, lợp ngói.”
Như vậy đình Cổ Lương ít nhất cũng có từ đầu thế kỷ 18 và vốn
là một ngôi đền thờ hai vị nam thần Phổ Tế Đại vương, Nam Hải Đại vương. Thời Nguyễn, khi dân làng bắt đầu rước tượng
công chúa Liễu Hạnh về thờ làm thành hoàng thì trong đình mới xây điện Mẫu. Sau
này đền Cổ Lương đã trở thành một điểm hầu đồng.
Ngày nay đình Cổ Lương và sân đình cũ đều đã bị lấn chiếm hết,
chỉ còn lại ngôi đền trong khuôn viên chật hẹp. Tuy nhiên với kiến trúc còn
nguyên vẹn cùng cảnh quan bên ngoài khá đẹp, lại nằm ngay trên phố Nguyễn Văn
Siêu gần di tích Ô Quan Chưởng, đền Cổ Lương là một điểm dừng chân lý thú cho
khách tham quan từ xa khi đến thủ đô Hà Nội.
Mẫu Liễu là một vị nữ thần được thờ trong đạo Mẫu truyền thống
của Việt Nam. Huyền thoại về tiên Liễu Hạnh giáng trần hai lần như một cô gái
xinh đẹp và người vợ nết na rồi hiển linh đã được lưu truyền rộng rãi ở nhiều
vùng quê trong nước, đặc biệt ở vùng Bắc bộ.
Mặc dù sự tích mới chỉ
xuất hiện vào thời Lê Trịnh, song bà chúa Liễu đã sớm được dân gian tôn làm một
trong “Tứ bất tử” của thần nhân đất Việt. Một mặt Liễu Hạnh tượng trưng cho
tinh thần phóng túng tự do; mặt khác, trong tâm thức dân gian, bà chúa có thể
ban phúc cho mọi người.
Vua Lê Huyền Tông từng sắc phong bà là “Liễu Hạnh công
chúa”, đến thời Nguyễn lại suy tôn bà làm “Mẫu nghi thiên hạ”. Nơi thờ bà chúa
Liễu thường là các đền, phủ và một số điện Mẫu ở hậu cung các chùa.
Ngôi đền nằm trong ngõ nhưng chỉ cách hè phố Nguyễn Văn Siêu
hơn hai chục bước. Bên ngoài, tường đền mới quét vôi vàng, trông khang trang, sạch
sẽ. Một cây bàng to, cành lá xum xuê làm tôn thêm phần cổ kính của di tích, đồng
thời đó cũng là điểm nhấn dễ nhận ra từ xa.
Cổng đền lợp ngói ống, mái cong, hai bên có đôi câu đối chữ
Hán và phù điêu tượng hai vị thần khá giống nhau, mặt quay về hướng nam, tay cầm
đại đao. Sau cánh cổng vuông trên có dòng chữ đắp nổi “Cổ Lương Linh Từ” là một
cái sân ngắn, hai bên có nhà tả, hữu mạc và tượng một con sấu to đội bát hương
và bàn thờ lộ thiên ngay trước cây bàng, cạnh lò thiêu vàng mã.
Qua sân đến ngay nhà tiền tế 3 gian và hậu cung xây kiểu đơn
giản với khung bằng gỗ lim. Tất cả đều mang phong cách nghệ thuật kiến trúc cuối
thời Nguyễn.
Nội thất chủ yếu nằm ở nhà tiền tế và hậu cung, bộ đồ thờ
cúng khá đầy đủ và các di vật được bảo quản tốt. Trong đền hiện còn 4 bia đá dựng
từ thời Nguyễn. Đáng chú ý là có một quả chuông đồng to với bài ký đề tên “Cổ
Lương Chung Ký” được đúc vào niên hiệu Thiệu Trị thứ 3 (1843). Bài ký này ghi mục
đích, ý nghĩa của việc đúc chuông để lại cho muôn đời sau, ghi tên những người
đóng góp công đức để tu sửa đền và đúc chuông.
Ngoài bia đá và chuông đồng, trong đền còn lưu giữ được các
sắc phong và 4 hoành phi, 6 câu đối với nội dung ca ngợi công đức của Mẫu Liễu
Hạnh. Một bức hoành phi ghi: “Thao thuỷ khôn tinh” (Đức kiên trung như nước
sông Thao). Một đôi câu đối viết:
Tây Hồ dạ nguyệt quy tiên hạc
Sùng Dĩnh xuân hoa ám khải vân.
Nghĩa là:
Trăng đêm Tây Hồ đưa đón hạc tiên
Hoa xuân Sùng Dĩnh vấn vương mây rạng.
Hai tờ sắc phong Liễu Hạnh công chúa bao gồm: Sắc thứ nhất
có niên đại Duy Tân thứ 5 (ngày 8-6-1911); sắc thứ hai ghi ngày 25 tháng 7 âm lịch
năm Khải Định thứ 9 (1924).
Trong đền cũng giữ được 2 bức cuốn thư gỗ, 3 ngai thờ và 18
pho tượng; đáng chú ý hơn cả là pho tượng lớn đặt trong khám thính tại gian
chính giữa hậu cung: tượng mặc áo đỏ, khuôn mặt phúc hậu. Ngoài ra còn một số đồ
thờ khác như bộ bát bửu, lọ hoa, cây nến, bát hương sứ, đồng, v.v..