Đền Hích thuộc xóm phố Hích, xã Hòa Bình được xây dựng vào thời nhà Nguyễn (khoảng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX), thờ nữ thần sông nước có tên Bạch Ngọc Thủy Tinh Công Chúa. Hiện nay đền là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của Nhân dân trong vùng.
Tọa lạc trên một gò đất “khum khum gọng vó” nhô ra phía sông
Cầu trên một vùng nước “tụ thủy”, mặt quay về hướng Tây, sau lưng là ngọn núi
Khản và phía trước là dải núi Hích xanh thẫm, đền Hích (phố Hích, xã Hòa Bình,
Đồng Hỷ) bao đời nay là nơi sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân xã Hòa
Bình và du khách thập phương. Đền không chỉ là một địa điểm tín ngưỡng tâm linh
mà còn là Di tích lịch sử văn hóa.
Không ai biết chính xác ngôi Đền này được xây dựng từ khi
nào, nhưng dựa vào phong cách kiến trúc hiện có, đền Hích được cho là xây dựng
vào đời nhà Nguyễn (cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX).
Căn cứ vào sắc phong được cấp ngày 25/7 năm Khải Định thứ 9
(1924) thì: Đền Hích thờ Nữ thần sông nước có tên Bạch Ngọc Thủy Tinh Công
Chúa. Tương truyền, năm xưa, nơi đây là vùng rừng núi hiểm trở, có đường bộ, đường
thủy thông với phương Bắc. Dòng sông Cầu rất sâu và rộng, tàu thuyền lớn vận
chuyển qua lại dễ dàng nên dọc đoạn sông đi qua cổng Đền có đặt một số trạm gác
của triều đình.
Cuộc sống thanh bình của nhân dân nơi đây bị đảo lộn khi giặc
phương Bắc tràn xuống. Nơi đây cũng trở thành chiến lũy, nơi tập luyện của quân
ta để chống giặc. Tuy nhiên, do thế giặc quá mạnh, quân ta phải rút lui để bảo
toàn lực lượng. Khi hàng trăm chiến thuyền của giặc kéo đến khúc sông này thì bỗng
nhiên mây đen vần vũ, nước sông sôi sùng sục, sóng lớn đánh vào mạn thuyền khiến
quân giặc mất lái thuyền xô vào những vách đá rồi vỡ ra từng mảnh, phần lớn
lính rơi xuống nước, số ngoi được lên bờ thì bị quân ta phục kích tiêu diệt khiến
thế trận tan tác.
Khi trời đất trở lại bình yên, có người thấy một thiếu nữ
xiêm y trắng ẩn hiện rồi biến mất cùng khói sóng trên sông. Biết đây là vùng đất
thiêng, có thần tiên giúp đỡ, nhân dân cho lập đền thờ. Từ đó, mỗi khi thuyền
bè qua lại khúc sông này đều dừng lại, lái thuyền lên bờ thắp hương cầu nguyện
cho thuận buồm xuôi gió. Như vậy, có thể nói, căn cứ vào truyền thuyết này, đền
Hích đã được nhân dân dựng lên từ rất lâu đời.
Làng Hích là khu vực giàu tài nguyên khoáng sản, đặc biệt là
chì và kẽm với trữ lượng lớn. Dưới thời Pháp thuộc, đây là nơi ở của chủ mỏ và
công nhân. Những năm 20 của thế kỷ XX, Hích trở thành một thị trấn khá sầm uất.
Tuy nhiên, dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến
tay sai, đời sống của nhân dân hết sức khổ cực, công nhân bị bóc lột thậm tệ.
Công nhân mỏ kẽm Hích đã tổ chức đấu tranh đòi quyền lợi như bãi công, đòi tăng
lương, giảm giờ làm…
Những năm 1940, phong trào cách mạng Võ Nhai ngày một lên
cao, thực dân Pháp cùng phản động tay sai ra sức lùng sục, đàn áp. Khu vực đền
Hích lúc này trở thành địa điểm an toàn, là nơi hội họp, liên lạc của cán bộ địa
phương cũng là nơi hoạt động của các đội viên Đội Cứu quốc quân.
Năm 1944, tại đền Hích, dưới sự chỉ đạo của tổ chức Đảng Võ
Nhai (trước Cách mạng tháng Tám, làng Hích thuộc xã Đặc Kiệt, tổng Vân Lăng,
châu Vũ Nhai, sau năm 1953 được tách thành 3 xã: Văn Lăng, Hòa Bình và Tân
Long), Nông hội đỏ xã Đặc Kiệt đã được thành lập.
Sau khi thành lập, Hội đã tổ chức cho nhân dân đến tịch thu
tài sản, triện của lý trưởng, đồng thời vận động bà con quyên góp lương thực, tập
hợp quần chúng đứng lên chuẩn bị Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Điều này cũng đã được ghi trong lí lịch của
di tích này.
Trong thời kỳ chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, đã
có nhiều cơ quan, đơn vị về ở và làm việc tại xã Hòa Bình (như Tòa án Quân sự,
xưởng giới H5 – Quân khu I, Đoàn Nghệ thuật Việt Bắc). Riêng Đền Hích từng được
sử dụng làm kho quân lương của Liên khu Việt Bắc.
Do sự tàn phá của thời gian, Đền đã xuống cấp nên được trùng
tu một số lần, phục dựng lại một số hạng mục nhưng vẫn giữ được nét cổ kính,
thâm nghiêm. Đặc biệt, Đền còn lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị như bộ kiệu,
sắc phong của triều đình, ngai, chuông đồng, hoành phi, tượng…
Những cổ vật có giá trị như: Bộ kiệu bằng gỗ sơn son, thiếp
vàng, thân kiệu trạm rồng mây hội tụ; 06 pho tượng (trong đó có 03 pho được
truyền tụng lại là làm bằng đồng đen); một đôi hạc đồng cổ; ba sắc phong của
triều Nguyễn; 01 đỉnh hương và 02 quả chuông đồng cổ; 02 bức hoành phi sơn son,
thiếp vàng; 02 câu đối và 01 bức đại tự, đặc biệt còn 04 tấm kê chân cột bằng
đá hoa cương.
Lễ hội của đền hàng năm tổ chức từ ngày 14 đến ngày 15 tháng
giêng (âm lịch); có rước kiệu và có các trò chơi như đấu vật, chọi gà, cờ tướng,
đánh bóng,... đã thu hút nhiều du khách trong và ngoài tỉnh đến tham quan, vãn
cảnh.
Hiện nay, Đền có khuôn viên rộng trên 2 nghìn m2 rợp bóng
cây xanh, có một số công trình phụ như: nhà khách, khu vệ sinh, bãi để xe phục
vụ cho nhu cầu khách tham quan vãn cảnh hay tổ chức lễ hội.
Hội đền Hích được tổ chức hằng năm vào ngày rằm tháng Giêng
với phần lễ được diễn ra rất long trọng và phần hội với các trò chơi dân gian.
Dân làng tổ chức rước kiệu (trên kiệu có đặt bài vị nữ thần của Đền và một số đồ
lễ) đi khắp làng ban phước lành cho dân chúng. Riêng ngày 17/3 Âm lịch, dân
làng tổ chức ngày giỗ Mẫu. Ngày Hội và ngày giỗ Mẫu đền Hích hằng năm đều diễn
ra khá trang trọng và thu hút đông đảo người dân thập phương về trẩy hội.
Với những giá trị của di tích, Ngày 28/02/2007, UBND tỉnh
Thái Nguyên đã ban hành quyết định số 369/QĐ-UBND xếp hạng Đền Hích, xã Hòa
Bình là Di tích Lịch sử, văn hóa cấp tỉnh.
Hoàng Hải
Nguồn: Báo Thái Nguyên