Đền - chùa Hoành Lộ tọa lạc trên phần đất của thôn Hoành Lộ, xã Hoành Sơn, huyện Giao Thủy. Đền Hoành Lộ thờ các vị tổ có công khai hoang lấn biển tạo lập làng xã, thờ Đương cảnh thành hoàng Tây Hải Phạm Đại Vương.
Theo nguồn tư liệu và đặc biệt là tấm bia có niên hiệu Thành
Thái năm thứ 4 (1892) hiện dựng tại cổng chùa thì lịch sử vùng đất Hoành Lộ đã
được hình thành, mở mang vào thời vua Lê Thế Tông niên hiệu Quang Hưng (1578 –
1599) do sự bồi đắp phù sa của các sông lớn như: Sông Hồng, Sông Ninh.
Trước cách mạng tháng 8-1945, Hoành Sơn bao gồm 5 xã: Hoành
Nhị, Hoành Tam, Hoành Tứ, Hoành Lộ và Khắc Nhất thuộc hai tổng Hoành Nha và
Hoành Thu.
Năm 1947, hai xã Hoành Nhị và Khắc Nhất được sát nhập thành
xã Hoành Sơn. Xã Hoành Tam, Hoành Lộ, Hoành Tứ được hợp nhất thành xã Liên
Thành.
Đầu năm 1952, xã Hoành Sơn đổi thành xã Giao Sơn và xã Liên Thành
đổi thành xã Giao Hoành.
Năm 1969, hai xã Giao Hoành và Giao Sơn sát nhập thành xã
Hoành Sơn.
Ngày 30-4-1985, xã Hoành Sơn lại tách một phần diện tích và
dân cư của 2 thôn Sơn Đài, Sơn Thọ để thành lập thị trấn Ngô Đồng. Hiện nay, xã
Hoành Sơn gồm có 5 thôn: Hoành Tam, Hoành Tứ, Hoành Lộ, Sơn Đài và Sơn Thọ.
Đền chùa Hoành Lộ nằm ở trung tâm của thôn thuộc các xóm 4
và 5. Hai di tích nằm kề sát với đường giao thông liên xã, hơn nữa di tích lại ở
gần với trung tâm huyện lỵ Giao Thủy, nơi có mật độ dân cư đông đúc nên rất thuận
tiện cho việc phát huy giá trị.
Quang cảnh đình đền Hoành Lộ
Đền Hoành Lộ thờ các vị tổ có công khai hoang lấn biển tạo lập
làng xã. Qua việc tìm hiểu truyền thuyết và khảo sát điền dã và nghiên cứu một
số tư liệu Hán Nôm còn lưu giữ tại di tích, có thể khái quát công cuộc khai khẩn
đất hoang, thành lập làng Hoành Lộ như sau: Theo sách: “Sơn Nam phong vật chí”
của tác giả Hà Tông Quyền viết vào năm
Minh Mệnh thứ 10 (1829) thì vào thời vua Lê Thánh Tông niên hiệu Hồng Đức
(1460-1497), triều đình có chủ trương khuyến khích nông dân khai phá các vùng
hoang hóa để tạo nên những vùng đất mới nhằm đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp.
Được sự khuyến khích của triều đình, nhân dân ở nhiều nơi đã
kéo về khai hoang, lấn biển ở vùng ở vùng đất Sơn Nam để tạo nên những làng quê
mới. Lúc này theo dòng chảy của con sông Hồng, đại bộ phận dân cư từ nhiều nơi
đã đến khai hoang tại vùng đất Hoành Lộ. Những vị tổ đầu tiên đặt chân tới đây
thuộc các dòng họ: Nguyễn, Doãn, Lê, Đặng, Phạm, Trần, Vũ ... họ là những người
dân xuống từ vùng đất Hà Nam, Hà Tây và Hà Nội.
Về sau còn có thêm 3 dòng họ: Bùi, Đỗ, Cao từ vùng Kim Động
thuộc tỉnh Hưng Yên tới đây hợp sức khai hoang… Kết quả hàng loạt các cánh đồng
được đắp bờ vùng bờ thửa để thuận tiện cho việc trồng lúa nước như các cánh đồng:
Cao Táo, Gia Hưng, Quán Thổ, Ương Trì, Ương Lục... Thành quả và công sức của
các ông tổ được nhân dân địa phương ghi nhận, thờ phụng tại đền.
Đền thờ đương cảnh thành hoàng Tây Hải Phạm Đại Vương, được
nhân dân thờ rất trang trọng tại cung cấm của ngôi đền. Vị thành hoàng này
không chỉ thờ ở đền thôn Hoành Lộ mà còn được thờ ở một số di tích khác trong
vùng như đền Hoành Tam, đền Hoành Tứ. Như vậy vị đương cảnh thành hoàng Tây Hải
Phạm đại vương là một vị thần có nhiều công lao với nhân dân và tư lâu đã trở
thành vị hiệu chính của làng Hoành Lộ.
Việc thờ phụng nhân vật thành hoàng này có ý nghĩa tâm linh
rất lớn đối với cư dân vùng ven biển, là một vị thần thiêng liêng che chở, độ
trì cho mọi người có được cuộc sống bình yên, ổn định đời sống.
Đền Hoành Lộ được xây dựng trên một khu đất cao ráo có diện
tích gần một mẫu Bắc Bộ thuộc xóm 5 xã Hoành Sơn. Ngôi đền xây dựng quay về hướng
Đông, trước đền là nghi môn cao to, bề thế. Chính giữa là hai cột đồng trụ cao
trên 5 mét được chia làm ba phần, chân đế, thân và đỉnh. Chân đế là một khối bốn
mặt phía giữa phình ra rồi thu nhỏ dần về hai bên tạo thành một cái nền vững chắc.
Bên cạnh cổng chính còn có hai cổng phụ xây dựng cân đối theo kiểu “chồng
diêm”, hai tầng tám mái có đao góc và lợp giả ngói ống. Hệ thống nghi môn của đền
Hoành Lộ được xây dựng hết sức cân đối theo một tỷ lệ thích hợp, đã tạo lên được
sự khang trang bề thế, hơn nữa công trình còn tạo thành thế khép kín bảo vệ an
toàn cho di tích.
Qua hệ thống nghi môn là vào đến một sân rộng, được lát gạch
sạch sẽ, ngăn cách giữa khu vườn với sân là dãy tường hoa xây thấp có bổ trụ và
trang trí gạch thông gió. Tổng thể ngôi đền được dựng theo kiểu chữ
"đinh". Đứng từ xa nhìn lại, đền Hoành Lộ được xây dựng nổi bật lên bởi
hệ thống lầu gác nhiều tầng, các tòa lầu gác được xây dựng hết sức cầu kỳ ở
cung cấm và hai bên hậu lâu của tòa tiền đường với hai, ba lớp mái. Hệ thống
lâu gác được xây dựng cân đối đã làm tăng thêm sự tôn nghiêm cho nơi thờ tự,
hơn thế còn tạo dựng bề thế cho công trình kiến trúc.
Tòa tiền đường đền Hoành Lộ gồm ba gian, hai chái. Với hai đầu
hồi xây bít đốc. Chính giữa tòa tiền đường là hệ thống cửa ra vào, chúng được
gia công theo kiểu "thượng chấn song, hạ bức bàn" rất chắc chắn. Tiếp
giáp với đầu hồi về phía ngoài là hai cột trụ được xây nhô ra để đỡ tường bờ chảy.
Toàn bộ phần bờ nóc của ngôi đền được đắp cao hơn, lượn cong về hai phía và dừng
lại ở họa tiết “lưỡng long” đắp nổi rất độc đáo. Toàn bộ phần mái và bờ nóc của
công trình đều được trang trí tạo dáng chau chuốt, khéo léo góp phần tôn thêm sự
uy nghiêm cho công trình kiến trúc.
Tiếp giáp với tòa tiền đường là tòa trung đường và hậu cung.
Trung đường và hậu cung được xây quay dọc giao mái bắt vần với toà tiền đường tạo
thành một hệ thống hoàn chỉnh. Tòa trung đường gồm ba gian, được thiết kế vững
chắc bằng các cột cái với chất liệu bê tông giả gỗ (trước đây là cột gỗ lim) đứng
song song chịu lực. Các cột cái được liên kết với nhau bằng hệ thống “vỉ ruồi”
được xây bằng gạch, sau đó lại được xây cuốn thành một bộ vì kèo truyền thống.
Nằm phía trên của hệ thống vì kèo là các con hoành vuông cùng với thượng lương
chạy dọc theo suốt chiều sâu cuả ba gian trung đường.
Ngăn cách với trung đường và cung cấm là hệ thống vách thuận
được xây bằng gạch, phía trên nóc có đắp họa tiết “hổ phù” oai nghiêm, phía dưới
có 4 chữ Hán “thánh cung vạn tuế” nghĩa là “chúc thánh muôn tuổi” được đắp nổi.
Hai bên cửa ra vào được trang trí hình ảnh “phượng hàm thư” rất sinh động với
màu sắc rực rỡ.
Cung cấm của đền Hoành Lộ có hai gian, các cột đã được xây
to rộng hơn với kích thước mỗi cạnh là 45cm, phía trên xây cuốn vành mai có
trang trí gờ chỉ nhẹ nhàng thanh thoát, phía dưới là hệ thống cửa có ba ngăn
không lắp cánh. Với lối thiết kế trên đã tạo cho hậu cung ngôi đền thêm phần
cao ráo, thoáng đãng.
Nằm cách ngôi đền Hoành Lộ khoảng 500 m. Chùa tọa lạc trên một
khu đất thoáng đãng thuộc xóm 4 xã Hoành Sơn. Qua tam quan là vào tới bái đường
chùa Hoành Lộ (Vạn Phúc tự), ngôi chùa được làm theo kiểu chữ "đinh",
bao gồm bái đường 5 gian 2 chái và tam bảo 3 gian. Bộ vì kèo tòa bái đường được
gia công theo kiểu giá chiêng, mê cốn trốn cột. Tại mỗi bộ vì có hai cột cái
cao trên 6 mét được tạo dáng bút đòng. Hai cột cái được liên kết chặt chẽ với
nhau bằng hệ thống câu đầu. Phía trên những câu đầu là những tấm ván mê dày, được
tạo dáng giống hình tam giác cân, phía dưới có khoét lòng tạo nên sự thông
thoáng.
Ở gian phía ngoài tòa bái đường là nơi tiếp giáp với hệ thống
cửa, những người thợ xây dựng chùa Hoành Lộ đã bớt đi một hệ thống cột quân,
thay thế vào đó là những chiếc cột trốn, chúng được kê lên hệ thống đấu cánh
sen kép với nhiều lớp cánh khá cầu kỳ. Sau đó những chiếc đấu này lại dồn lực
xuống các thanh xà nách nối giữa cột cái với cột hiên. Cách thiết kế bộ vì kèo
như trên đã làm cho không gian nơi thờ Phật thêm rộng rãi.
Hệ thống bẩy tiền của chùa Hoành Lộ còn được đục chạm rất
phong phú các đề tài trang trí như tứ linh, tứ quý với đường nét chắc khỏe, mạch
lạc, khiến cho tòa bái đường không những chắc chắn về kỹ thuật mà còn rất đẹp ở
nghệ thuật điêu khắc. Nối tiếp với tòa bái đường là ba gian tam bảo. Tam bảo được
liên kết với bái đường bằng cách thức giao mái, tại đây hệ thống cột chịu lực
đã được xây bằng gạch với kích thước to rộng. Toàn bộ phần mái của tam bảo đều
được lợp bằng ngói nam, phía trên giáp với mái được xây cuốn đắp gờ chỉ nổi và
vẽ họa tiết cánh sen, vân ám khá công phu và đẹp mắt. Tại hệ thống cột này có
treo các câu đối được làm theo kiểu “lòng máng” ôm khít lấy thân cột đã tạo lên
sự trang nghiêm cho nơi thờ Phật. Xếp đặt vào chính giữa của hệ thống cột cái
là lớp tượng Phật được chia làm 6 cấp, đã tạo lên được một sự phong phú về tượng
pháp cho ngôi chùa.
Nằm về phía sau của chùa Hoành Lộ còn có hệ thống nhà thờ tổ,
phủ mẫu. Công trình được xây dựng đối xứng với nhau qua một sân rộng lát gạch sạch
sẽ tạo thành thế tay ngai bảo vệ sự an toàn, khép kín cho ngôi chùa. Các công
trình trên đều được xây dựng bề thế khang trang với nhà tổ 5 gian, phủ mẫu 3
gian, tuy đều là các công trình mới nhưng những người thợ địa phương đều tuân
thủ theo phong cách xây dựng truyền thống: xây cuốn, lợp ngói nam, đắp gờ chỉ,
trang trí các đề tài “Lưỡng long chầu nguyệt”, “vân ám”, “phượng vũ” làm cho
công trình thêm phần trang trọng nhưng vẫn mang đậm phong cách kiến trúc cổ
truyền.
Đền chùa Hoành Lộ còn là di tích gắn với phong trào Cách mạng
của địa phương. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, khu di
tích đền chùa Hoành Lộ đã có nhiều đóng góp quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập cho dân tộc.
Năm 1945 tại Đền Hoành Lộ, Ủy ban Cách mạng lâm thời được
thành lập chấm dứt giai đoạn cực khổ lầm than cho nhân dân, đội tự vệ của xã
thường xuyên sử dụng khu vực đền chùa Hoành Lộ làm nơi luyện tập quân sự.Trong
thời kỳ “hai năm bốn tháng” từ tháng 10/1949 đến tháng 2/1952, chùa Hoành Lộ trở
thành đường dây liên lạc giữa vùng tự do Thái Bình với vùng bị giặc tạm chiếm.
Hầu hết các chỉ thị, tài liệu của Đảng thường được cất giấu tại Đền Hoành Lộ,
sau đó mới được phân tán đi sâu vào các cơ sở bí mật.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1965-1975),
nhân dân làng Hoành Lộ đã phát huy truyền thống tốt đẹp bảo vệ đất nước hăng
hái thi đua sản xuất lập thành tích hướng về miền Nam ruột thịt, đền chùa Hoành
Lộ là nơi đón tiếp đưa tiễn những người con quê hương lên đường làm nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn này, tại đền chùa Hoành Lộ quần chúng nhân dân đã
tiễn nhà sư Thích Tâm Thanh lên đường nhập ngũ vào Nam đánh giặc.
Cây đa đình làng Hoành Lộ được công nhận là cây di sản Việt Nam
Ngày nay tại Di tích Đền chùa Hoành Lộ diễn ra rất nhiều
ngày lễ như: Ngày lễ Vu Lan 15/7 (âm lịch), ngày lễ Phật Đản 14/4 (âm lịch) được
tổ chức tại chùa và ngày 15 tháng 02 (âm lịch) là ngày giỗ của 11 ông tổ của
các dòng họ đã có công khai hoang mở đất. Đây là lễ hội chính được tổ chức tại
đền đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo nhân dân trong vùng và ngày 15/2
hàng năm còn là ngày gặp gỡ, tụ hội của lớp lớp con cháu đang làm ăn sinh sống
xa quê hương.
Phòng Văn hóa- Thông tin huyện Giao Thủy