Nằm nép mình trong khuôn viên Trung tâm Hội nghị Quốc gia và được bao bọc bởi một đầm nước trong xanh, từ hàng nghìn năm nay, miếu thờ Đức Thánh Đầm luôn là biểu tượng thiêng liêng của người dân làng Mễ Trì Thượng, phường Mễ Trì, Nam Từ Liêm.
Là một địa danh nổi tiếng thiêng liêng, nhiều du khách thập
phương có dịp đi qua vùng đất Mễ Trì đều đến thắp hương và vãn cảnh Miếu Đầm
(hay còn gọi là miếu Đức Thánh Đầm). Hiện miếu nằm trên đường phố Miếu Đầm, gần
ngay cạnh cổng số 5 của khu Trung tâm Hội nghị Quốc gia.
Đó chính là đền thờ Đức Thánh Đầm hoặc đền thờ Ông Hoàng Ba
– được biết tới là nơi ngụ của thần rắn linh thiêng. Dù nép mình trong hàng cây
cổ thụ và xung quanh bao bọc bởi đầm nước xanh ít ai biết tới, ngôi đền này vẫn
luôn là biểu tượng thiêng liêng của người dân làng Mễ Trì Thượng từ bao đời nay.
Đường đi vào miếu Đức Thánh Đầm (Ảnh: L.T)
Ngôi miếu được bao bọc ba hướng là đầm nước trong xanh với
các hành lang vây quanh. Dọc đường đi từ cổng vào là những hàng cây thẳng tắp,
xanh tốt. Nhìn từ xa, khuôn viên miếu như một bán đảo, bên kia là các công
trình hiện đại, sơn thủy hữu tình.
Điều kì lại là, mặc dù miếu ở vị trí trang trọng nhưng điện
thờ lại rất đơn sơ, nép mình dưới gốc cây si cổ thụ gốc sần sùi mọc trên nền đất
cỏ xanh tự nhiên. Xung quanh điện thờ chính trồng sáu cây gạo cổ thụ. Bên ngoài
là cổng miếu, có bốn cột cao, nền lát gạch.
Truyền thuyết kể rằng: Khu vực đầu làng Phùng Khoang và làng
Mễ Trì xưa có một đồi cây rậm rạp, tục truyền là quán Ảnh, dưới chân đồi có một
cái vực sâu, thường ngày cứ đến chiều lại thấy thấp thoáng một thanh niên thơ
thẩn ở đấy rồi biến đi đâu mất, mọi người dân gần đấy khả nghi, bàn nhau rình
xem người thanh niên ấy đi đâu? Cuối cùng một buổi trời gần tối thấy người
thanh niên ấy đi xuống cái vực rồi rẽ nước biến mất.
Người thanh niên ấy chính là con vua Thủy Tề đi chơi bị lạ
không đường về. Khi biết con mình bị lạc ở khu vực này, vua Thủy Tề đã đi tìm
con, do thân phận một vị thần không thể xuất hiện với hình dáng thật của mình
được nên vua đã biến thân thành một người khổng lồ, nửa đêm đào đất quanh khu vực
tìm con.
Ngài đã gánh bốn gánh đất, được ba gánh trót lọt đổ vào khu
Đồng Mọc, đến gánh thứ tư thì bị đứt quãng, cõng được một bên còn một bên phải
bỏ lại vì có tiếng động nên chó sủa, gà gáy vang, tưởng trời sắp sáng sợ lộ
chân tướng nên vua đành trở về khi chưa tìm được con, cái vực đó biến thành một
cái đầm.
Thời gian thấm thoắt trôi đi. Thời đó đất Anh Sơn chỉ là một
làng nhỏ, trong làng có một đôi vợ chồng già nhà nghèo, không có con. Một hôm,
ông mang lưới ra đầm đánh cá, cả ngày hôm ấy chẳng đánh được con cá nào cả, chỉ
được một quả trứng to bằng quả trứng vịt.
Ông già mang về nhà cất vào trong chum thóc hằng ngày phải
đi kiếm ăn sinh nhai, sáng đi tối về lại mở chum ra xem, ước chừng khoảng hơn
hai mươi ngày thấy quả trứng ấy nở ra một con rắn trắng, hình dáng giống rồng,
vẻ đẹp khác thường, ông già vừa sợ vừa mừng nhưng vẫn giấu không cho ai biết, đem
rắn giấu vào trong chum, hàng ngày ông lấy hoa cỏ cho rắn ăn, ông thương rắn
như con đẻ của mình.
Chăm nuôi được độ một tháng ông suy nghĩ và than thở rằng:
Nhà ta nghèo, thân ta đã già mà lại mất một số buổi ở nhà thời lấy gì mà ăn, liền
đem rắn gửi vợ ông nuôi thay mình, ông già tiếp tục đi kéo cá để sinh nhai,
sáng đi chiều về, như thường lệ lại ngó xem rắn, khoảng được trăm ngày thấy rắn
lớn dài rất nhanh.
Một đêm nọ bỗng có một trận mưa to gió lớn ở ngoài đầm, rắn
rời khỏi nhà chạy thẳng ra đầm biến mất, ông già đuổi theo để bắt rắn lại,
nhưng chẳng tìm thấy rắn đâu, ông đi khắp đầm tìm gọi rồi lại trở về nhà, ngày
đêm luyến tiếc.
Hôm sau, ông già lại ra đầm đánh cá, khi ra tới đầm ông lại
nghĩ đến rắn con, ông khấn vái rằng: Rắn ơi! Rắn con ta ơi! Rắn chẳng ở cùng ta
rắn lại ra đầm này, gia cảnh ta nghèo lắm, hôm nay ta kéo cá ở đầm này, con phù
hộ cho ta được nhiều cá, công ta nuôi rắn, rắn trả ơn ta vậy.
Quả nhiên, hôm ấy ông già kéo được nhiều cá thật. Rồi từ đó,
ngày nào ra đến đầm ông lại khấn như thế lại được nhiều cá. Mọi người đánh cá đều
thắc mắc và đến hỏi ông già về nguyên do làm thế nào mà ông kéo được nhiều cá
thế? Ông già đáp rằng: Có một hôm ... Đến ngày khác, rất nhiều người đi bắt cá
cũng làm theo như hôm trước khấn vái, rồi mới đem lưới xuống đầm kéo cá, cứ liền
ngày nào cũng làm như vậy.
Xuất phát từ đó, mọi người sinh sống bằng nghề chài lưới kiếm
cá tập hợp nhau lại, tới nơi đầm đó, đào đất đắp thành một cái bệ đất rồi đánh
cây trồng xung quanh cái bệ ấy, ngày ngày đi đánh cá vào bệ đó thắp hương khẩn
cầu. Từ ấy trở về sau, nơi đó trở nên linh thiêng.
Mọi người cầu việc gì cũng được ứng nghiệm ... Hương hoa khẩn
cầu, gần xa nô nức đâu đâu cũng đến lễ bái cầu xin ... rồi đến một ngày tiếng
tăm về đến Đế đình, trong lúc trời hạn hán thiên tai ... Đế đình sức cho hơn một
trăm nơi đền miếu linh thiêng nhất lễ đảo vũ cầu mưa, nhưng cũng không thấy
mưa.
Lúc bấy giờ Đế đình nghe được tin bệ đầm linh thiêng cầu sao
được vậy. Nhà Vua liền phái quần thần sửa lễ, các quan đem lễ về bệ đầm làm lễ
cầu đảo, khi tiến lên bệ đất đầm, các quan triều thần vào lễ, đang hành lễ thời
cơn bão táp đổ xuống ầm ầm không chứa đâu cho hết nước ... Sau đó triều thần về
tâu lên Đế đình, nhà vua cho tiền bạc về xây dựng một ngôi đình tại đất Anh
Sơn, địa phận xứ Đồng Mồ để ức vạn niên phụng sự hương hỏa. Nhà vua ban sắc chỉ,
xuân thu nhị kỳ, triều thần về tế lễ cấp quốc gia. Đình vừa là nơi tế lễ, vừa
là nơi trú nắng mưa.
Khi việc xây dựng ngôi đình hoàn thành, thời gian trong khoảng
nửa đêm, tự nhiên bỗng thấy một trận mưa to gió lớn, sấm sét nổi lên chưa từng
có bao giờ, rồi ngôi đình tự nhiên biến mất, thậm chí một viên ngói cũng chẳng
còn. Đến sáng hôm sau, dân làng kéo nhau ra xem chẳng thấy đình đâu cả, chỉ còn
tường vách, đi tìm đâu cũng không thấy, dân thấy điềm đó rất lạ.
Thời gian đó dân chúng lại gặp nắng hạn, dân xã phải tập
trung trai tráng ra nạo vét các giếng để lấy nước ăn, bốc vét bùn lầy để thông
thủy mạch. Khi nạo vét các giếng ở gần Miếu Đầm, mọi người đào sâu bốc vét hết
được bùn mang lên, lạ thay thấy một cái Đình ở sâu dưới giếng.
Người con trai họ Ngô thấy có một chiếc chiêng đồng liền cầm
lên đánh kêu ba tiếng, lập tức lăn ra chết ngay tại chỗ. Dân làng rất sợ hãi
kinh hoàng, đem chiêng ấy đặt ngay xuống giếng, chỉ chớp nhoáng trong giếng nước
mạch nổi lên đầy, mưa gió tầm tã, dân xã người nào người ấy run sợ kinh hoàng.
Từ đó về sau mỗi lần tát giếng mọi người vẫn thấy có một cái
Đình ở dưới giếng. Mọi người truyền tụng nhau rằng: Nhà ở giếng là nhà của Đức
Thánh Đầm, rắn thần là dòng dõi con Vua Thủy Tề, liền xây dưng trên bờ giếng một
bệ thờ. Khi gặp trận hạn hán, các cấp phủ, huyện lệnh sức xuống cho quan xã
cùng dân chúng sửa lễ đem ra bệ đầm cầu đảo, nếu cầu rồi mà không mưa thì lệnh
cho tát giếng trời tất sẽ mưa to.
Dịch theo Thần Tích và các truyền thuyết Phùng Uyên Long Thần
Phả, phù thủy lấy cắp đình, ghi trong Việt Điện U Linh.
Nay ngôi miếu rắn Long Vương là miếu Đầm, giếng thiêng nơi gần
miếu nay là đền Mẫu Giếng Mộc. Đầm xưa thông sang cả Phùng Khoang, Trung Văn
hay xuống khu Trung Kính, Quan Nhân ... đều là những nơi thờ Đông Hải Cao Sơn,
Quý Minh thiên tử Đại Vương con của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Liệu tên Mỹ Đình chắc
là từ câu chuyện lấy Đình của Long Vương chăng.
Miếu Đầm và Đền Mẫu Giếng Mộc làng Mễ Trì Thượng, Nam Từ
Liêm, Hà Nội trong ngày hội tháng 2 âm lịch.
Rắn thần thì đúng là hình tượng Rồng Lạc Long Quân, còn
Phùng Uyên Long Vương là tên như đệ tam Thái Tử Động Đình hay Mẫu Long Uyên nơi
đền Vực, Hưng Yên.
Ngôi Đình trong câu chuyện của Việt Điện U Linh thời Trần
này có lẽ không phải đình thiết chế thành hoàng thời sau và cũng không phải
đình trạm, mà là nơi ở của Thần.