Đình Phương Quan được xây dựng để thờ các vị Thành hoàng bảo trợ cho cuộc sống của dân làng và phối thờ các vị anh hùng chống giặc ngoại xâm. Đây là công trình đẹp cả về hình ảnh và chiều sâu lịch sử - văn hóa.
Đình Phương Quan được xây dựng ở khu vực trung tâm làng
Phương Quan (xã Vân Côn, huyện Hoài Đức, Hà Nội). Đình nhìn hướng Nam, tọa lạc
trên một khu đất rộng, phía trước có giếng đình, rất đẹp về phong thủy.
Sức hấp dẫn của di tích này, ngoài kiến trúc nghệ thuật còn
là lễ hội làng độc đáo và những câu chuyện hấp dẫn liên quan đến lịch sử - văn
hóa địa phương.
Đình Phương Quan. Ảnh: Nguyễn Thắm
Một di tích kiến trúc nghệ thuật tiêu biểu
Đến nay, vẫn chưa biết chính xác năm xây dựng đình Phương
Quan nhưng kiểu dáng kiến trúc của ngôi đình, thể hiện rõ nhất ở đại bái, là kiểu
dáng kiến trúc đình Việt thế kỷ XVII.
Ban đầu, đình chỉ có một nhà ngang, trong một đợt trùng tu ở
thế kỷ XIX xây dựng thêm phần chuôi vồ làm hậu cung, tạo thành hình chữ “đinh”.
Về sau, đình lại được xây dựng thêm 2 nhà tả mạc, hữu mạc.
Đình Phương Quan nằm cách tỉnh lộ 72 chỉ mấy chục mét; trước
cửa đình có một giếng đình hình vuông. Đi qua tam quan xây kiểu nghi môn với 4
trụ biểu và 2 cổng phụ là tới sân đình, hai bên có tả mạc và hữu mạc, đều gồm 5
gian, kiểu nhà xây tường hồi bít đốc. Các bộ vì gỗ đều được tạo tác theo kiểu
thức kèo kẻ, giá chiêng đặt trên các quá giang.
Sân đình khá rộng dẫn khách tới 3 bậc thềm đá của
toà đại bái 3 gian, 2 dĩ. Bốn mái đình lợp ngói mũi hài, tạo hình cánh hoa,
đầu đao cong có hình lân, rồng được làm từ đất nung mang niên đại đầu thế kỷ
XVIII. Bờ nóc bờ dải xây kiểu chữ I với các hàng gạch trổ hoa chanh, hoa thị.
Hai đầu bờ nóc gắn hình con kìm, giữa các bờ dải có những con lân bằng đất
nung đắp vữa.
Tòa đại bái kết nối với hậu cung thành hình chuôi
vồ. Các bộ vì làm theo kiểu kèo kẻ giá chiêng đặt trên quá giang. Trước đây mặt
trước để trống, cuối thế kỷ XX mới xây tường bằng các panô.
Đình Phương Quan. Photo ©NCCong 2019
Các bộ vì có kết cấu thượng giá chiêng rường nách hạ kẻ trên
6 hàng chân cột. Một câu đầu lớn khấc 2 đầu ngoằm nối hai đầu cột cái qua các đấu
kê đầu cột hình vuông thót đáy theo kiểu thức chồng đè. Giá chiêng được tạo bởi
hai trụ trốn được đặt trên đầu câu. Con rường nối hai đầu trụ trốn đỡ rường bụng
lợn, đỡ thượng lương qua một đấu kê vát hình thuyền.
Từ thân trụ đôi rường cụt ăn mộng vươn ra đỡ các hoành mái
thượng. Giữa các rường đặt các đấu dày hình vuông thót đáy. Từ thân cột cái chu
vi 150cm có một xà nách ăn mộng vươn ra đầu cột quân.
Phía trên xà nách là các rường nách lớn đặt khít nhau tạo mặt
bằng mê cốn cho trang trí bằng chạm khắc. Một kẻ dài ăn mộng từ đầu cột quân
qua đầu cột hiên vươn ra đỡ tàu mái. Trên kẻ là dong đệm để đỡ các hoành.
Đỡ phần trên mái hồi là hệ thống chồng rường đặt trên thanh
xà ngang to, dầy. Xà có đầu ăn sâu chân mộng vào cột cái, hia đặt trên đầu cột
quân phía gian hồi. Phần mái dưới là hệ thống kẻ giống với phần kẻ của các bộ
vì chính. Bốn góc mái đều có một kẻ xó dài chạy suốt từ thượng lương qua đầu trụ
trốn và trụ cái tới cột góc. Đầu trên các kẻ góc chạm tạo hình đầu chim phượng.
Liên kết các bộ khung vì là các xà đại thượng hạ và hệ thống dầm sàn gỗ.
Sân đình Phương Quan. Photo ©NCCong 2019
Hiện nay hệ thống sàn gỗ còn đầy đủ nguyên vẹn, kiểu lòng
thuyền. Gian giữa không có sàn, nền lát gạch, là nơi bố trí đồ thờ và tế lễ.
Hai bên đình có sàn gỗ cho người ngồi. Phía trước gian giữa là 2 cánh cửa gỗ
lớn, kiểu thượng song hạ bản, có bánh xe lăn. Các gian bên phía trước là lan
can con tiện và cửa bức bàn. Các phía còn lại của đại bái trước đây là hệ thống
cửa bức bàn và bán bưng đố lụa cùng lan can con tiện.
Qua thời gian hệ thống cửa, đố này bị hư hỏng nên được thay
bằng tường xây kín. Phần dưới gầm sàn để trống. Chạy qua hàng cột hiên xây tường
vây, có các ô cửa tạo hình chữ thập thông thoáng nên đình. Các tảng kê chân cột
làm từ đá xanh dưới vuông, trên tròn cao kiểu dành ấm.
Hậu cung có nền cao hơn nền đại bái 40cm. Phía sau xây tường
vây kín tạo nên một kho cất chứa đồ đạc ở gần cung cấm. Bộ mái gồm hai tầng
chồng diêm, cổ diêm được bưng kín bằng ván đố lụa. Các bộ vì làm theo 4 hàng
chân: thượng chồng rường hạ kẻ, trên xà đỡ. Ở bộ vì thứ nhất là hệ thống các cửa
bức bàn ngăn cách với đại bái. Một gian, một dĩ bên trong là cung cấm, đặt
khám chứa long ngai bài vị và các đồ tế tự.
Chạm gỗ tại đình Phương Quan. Photo ©Hoai Nam
Di sản
Các mảng chạm khắc tập trung trên bộ khung toà đại bái và
dù được tạo tác dần dần trong mấy thế kỷ nhưng rất hài hòa. Những trang
trí trên các cốn. rường, thân kẻ, đầu dĩ ở các gian bên có niên đại sớm
nhất. Chúng được làm bằng cách chạm nổi sâu và chạm lộng nhiều lớp của thời
Lê Trung hưng với các đao mác mập thẳng dài.
Các tác phẩm muộn hơn chủ yếu nằm trên hai bộ vì chính ở
gian giữa, mang đậm phong cách điêu khắc nghệ thuật thế kỷ XIX. Đó là các bức cốn
chồng rường theo đề tài “Tứ linh chuyển bát” hay “Phong cảnh lâu đài sơn thủy”;
là các đầu dư hình rồng trán dô, mũi hếch, miệng rộng, đôi chân trước vững
chãi. Hậu cung đơn giản hơn, thường bào trơn, bào soi chỉ mộc mạc.
Đình Phương Quan được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật
quốc gia năm 2000.
"Kho báu trong bàn tay"
Theo người dân địa phương, đình Phương Quan được xây dựng để
thờ các vị Thành hoàng bảo trợ cho cuộc sống của dân làng và phối thờ các vị
anh hùng chống giặc ngoại xâm. Đây là công trình đẹp cả về hình ảnh và chiều
sâu lịch sử - văn hóa.
Trong nét đẹp về hình ảnh ngôi đình, tức nghệ thuật điêu khắc
trong đình, nhất là trên bộ khung của đại bái, có nhiều mảng chạm khắc kiến
trúc có niên đại khác nhau được thực hiện qua các đợt xây dựng, trùng tu, tôn tạo.
Điều rất đặc biệt là những người thợ đời sau đều có ý thức tạo
ra sự ăn nhập với những gì đã có trước đó, nên đã tạo thành một tổng thể thống
nhất về chạm khắc kiến trúc trang trí, tôn thêm vẻ đẹp của ngôi đình. Nhờ đó,
đình Phương Quan được xếp vào danh sách những ngôi đình đẹp ở vùng Đồng bằng Bắc
Bộ.
Còn nét đẹp của ngôi đình nhìn theo chiều sâu lịch sử - văn
hóa, thể hiện ở hội làng và câu chuyện truyền đời về “Kho báu trong bàn tay”.
Nhà nghiên cứu người địa phương Kiều Nga cho biết: Đại lễ hội của làng tổ chức
5 năm một lần, theo đúng định kỳ của “anh cả” là làng Vân, từ ngày 12 đến ngày
15 tháng Hai (âm lịch).
Theo nhà nghiên cứu Yên Giang, hội viên Hội Văn nghệ dân
gian Hà Nội, màn rước kiệu trong hội làng Phương Quan là “sao y bản chính” màn
rước kiệu trong hội làng Vân nên cũng được xếp đồng hạng “đẹp và đặc sắc nhất cả
nước”. Chính vì thế, vào dịp lễ hội làng Phương Quan, không chỉ dân trong làng,
trong xã tham dự mà hàng nghìn khách thập phương cũng về chung vui.
Còn câu chuyện về kho báu ở núi Bạch Tuyết trên địa bàn xã,
nhà nghiên cứu Kiều Nga kể: Các làng của xã Vân Côn lưng tựa vào núi, mặt hướng
nhìn sông, theo phong thủy là đất địa linh, nếu dựng nhà, lập nghiệp thì trở
thành đại phú... Giữa những năm 1980, một người giàu có tiếng ở huyện Hoài Đức
nghe nói có kho báu trong núi Bạch Tuyết đã thuê người và công cụ để tìm kiếm.
Kết cục, không chỉ mất công, mất của mà việc kinh doanh của
ông cũng lụn bại dần. Cụ Kiều Nga bình luận: Bài học từ việc tìm kho báu nói trên
đã được dân làng Phương Quan khắc ghi. “Kho báu trong bàn tay” chính là kho báu
được tạo ra bằng chính sức lao động, chỉ có như vậy mới thực sự có giá trị và bền
vững. Việc bảo tồn ngôi đình, “vật báu” của làng cũng vậy, chỉ có thể trông cậy
vào tâm huyết, trí tuệ và công sức của cả cộng đồng.