Đình Tân Khai thờ ba vị thần: Bạch Mã (thần Ngựa trắng), Tô Lịch (thần sông Tô Lịch) và Thiết Lâm (thần rừng lim ở hồ Tây). Tương truyền đây là ba vị thần nổi tiếng linh thiêng đã có công giúp vua Lý Thái Tổ xây dựng kinh thành và là những vị thần bảo hộ cho thành Thăng Long xưa.
Đình Tân Khai còn có tên gọi khác là đình Thái Cam, nằm
trong Cụm di tích đình Tân Khai - chùa Thái Cam thuộc phường Hàng Bồ (quận Hoàn
Kiếm). Được xây dựng từ đầu thế kỷ XIX, đây là nơi thờ tam vị Thành hoàng - những
vị thần bảo hộ cho kinh đô Thăng Long xưa. Với vẻ đẹp và không gian yên bình,
đình Tân Khai giống như khoảng lặng giữa khu vực phố cổ Hà Nội sầm uất, nhộn nhịp.
Theo tấm bia Minh Mạng thứ 21 (Canh Tý, 1840) và bia “Bản tự
chân duyên bi ký” dựng năm Thiệu Trị 5 (Ất Tỵ, 1845), đình - chùa Tân Khai được
xây dựng cùng thời điểm thành lập thôn Tân Khai. Năm Minh Mạng thứ 3 (Nhâm Ngọ,
1822), chính quyền chính thức công nhận thôn Tân Khai thuộc tổng Tiền Túc (huyện
Thọ Xương, phủ Hoài Đức). Ban đầu, đình được xây dựng sơ sài. Sau hai đợt cháy
lớn vào năm Mậu Tý (1828) và Đinh Dậu (1837), đình được xây dựng lại với quy mô
lớn hơn.
Đình Tân Khai thờ ba vị thần: Bạch Mã (thần Ngựa trắng), Tô
Lịch (thần sông Tô Lịch) và Thiết Lâm (thần rừng lim ở hồ Tây). Tương truyền
đây là ba vị thần nổi tiếng linh thiêng đã có công giúp vua Lý Thái Tổ xây dựng
kinh thành và là những vị thần bảo hộ cho thành Thăng Long xưa. Đình Tân Khai
được xây trên một mảnh đất nhỏ, có vị trí quan trọng đối với thành Thăng Long.
Đình Tân Khai được xây dựng năm 1822; trong thờ 3 thần Tô Lịch,
Bạch Mã, Thiết Lâm, ngày nay ở số 44 phố Hàng Vải, phường Hàng Bồ, quận Hoàn Kiếm,
Hà Nội.
Theo tấm bia dựng năm Minh Mạng 21 (1840) và văn bia “Bản tự
chân chuyên bi kí” khắc năm 1845 thì đình Tân Khai được xây trên khu đất hoang
phía đông tòa thành cũ thời Lê vào năm 1822, cùng với thời điểm dựng chùa Thái
Cam ngay bên cạnh.
Đó cũng là năm thành lập thôn Tân Khai, thuộc tổng Tiền Túc
(sau đổi là tổng Thuận Mỹ), huyện Thọ Xương. Sau đó, đình được trùng tu, sửa chữa
nhiều lần, lớn nhất là vào năm 1851. Thời trước, dân địa phương còn gọi là đình
Rổ Rá vì trước cổng đình thường bày bán đồ tre đan.
Cũng giống như trong nhiều ngôi đình khác ở Hà Nội, thành
hoàng làng Tân Khai là thần Tô Lịch, thần Bạch Mã và thần Thiết Lâm. Ba vị này
đã có công giúp vua Lý Công Uẩn xây dựng Thăng Long và trở thành các thần bảo hộ
cho kinh đô. Sự tích của các ngài đã được lưu trong sách chính sử, dã sử và
truyền thuyết dân gian, có thể tóm tắt như sau:
Vị đứng đầu phải kể đến là thần Tô Lịch, được hình thành
trong bối cảnh khởi dựng thành Đại La xưa kia và được các triều vua sau phong
là “Bảo Quốc, Trấn Linh, Định Bang Quốc Đô Thành hoàng Đại Vương”. Ngài là vị
thành hoàng đầu tiên ở nước ta được hai viên quan đô hộ nhà Đường là Lý Nguyên
Gia và Cao Biền phong theo đúng tiêu chuẩn Bắc phương là vị thần bảo vệ thành
luỹ, do nghĩa chữ “Thành” là cái thành, “Hoàng” là cái hào khô bao quanh thành.
Theo sách “Việt điện u linh tập” của Lý Tế Xuyên thì thần Tô
Lịch làm quan huyện lệnh ở Long Độ (Long Đỗ). Họ Tô đã nhiều đời ở đất Long Đỗ,
dựng nhà ben bờ con sông nhỏ, nhà tuy không giàu nhưng biết lấy đạo hiếu làm đầu.
Thời Tấn, ngài đã được khen là người có hiếu và được vua ban sắc cho đặt tên Tô
Lịch làm tên làng.
Vào đời Đường Mục Tông, quan đô hộ là Lý Nguyên Gia xây dựng
phủ lỵ Đại La trên nền nhà cũ của Tô Lịch, thần đã ứng mộng về nói với Nguyên
Gia rằng: “Tôi được uỷ cho làm thành hoàng ở đây. Nếu sứ quân biết giáo hoá cư
dân trong thành, hết lòng tận trung thì mới đáng là chức mục thú, xứng với
trách nhiệm của người làm quan tốt…” Nguyên Gia nghe theo và năm 823, ông cho
xây dựng đền, thờ Tô Lịch làm thành hoàng.
Mùa hè năm 866, Cao Biền (821-887) chiếm Đại La từ tay quân
Nam Chiếu, muốn mở rộng thành. Y nghe nói thần rất linh dị, bèn sắm lễ vật dâng
tế và tôn Tô Lịch làm “Đô phả Thành hoàng Thần Quân”. Cũng có thuyết cho rằng
Tô Lịch là thuỷ thần sông Tô Lịch, tự xưng tinh ở Long Đỗ, đứng đầu các địa
linh chống đối với Cao Biền. Biền yểm bùa nhưng không thành, sau đó y phải
phong Tô Lịch làm Đô Thành hoàng.
Năm 1010, vua Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư ra đây lại phong
cho Tô Lịch làm “Quốc đô Thăng Long Thành hoàng Đại Vương”. Thời Trần phong
thêm các mỹ tự “Bảo Quốc, Hiển Linh, Định Bang”.
Vị thần thứ hai được thờ tại đình Tân Khai là thần Bạch Mã,
hiệu là “Long Đỗ Thần Quân Quảng Lợi Bạch Mã Đại Vương”. Long Đỗ, tức “Rốn Rồng”,
cũng được gọi là núi Nùng. Tương truyền, núi có khe thông sâu xuống dưới đất,
tiếp nhận khí thiêng sông núi. Thần được thờ chính ở đền Bạch Mã (số 76 Hàng Buồm).
Tương truyền vào thế kỷ 9, Cao Biền xây thành Đại La, khi ra
ngoài cửa đông thấy một người hiện trong đám mây ngũ sắc. Vốn là đạo sĩ, Biền
có ý muốn trấn áp. Đêm đó, Biền nằm mộng thấy người đã gặp xưng là Long Đỗ. Biền
dùng bùa yểm bằng đồng chôn xuống đất, bùa liền bị sét đánh tan. Biền cả sợ liền
lập đền thờ, chính Biền cũng đã phải thú nhận: “Xứ này có thần linh dị, ở lâu tất
chuốc lấy tai vạ”.
Năm 1010 Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long xây dựng kinh thành
gặp nhiều khó khăn, nhiều lần thành đắp lên rồi lại đổ. Vua cho người cầu đảo ở
đền thờ thần Long Đỗ, thì thấy một con ngựa trắng từ đền chạy ra một vòng quanh
thành. Vua cứ theo vết chân ngựa rồi xây thành. Vua xuống chiếu phong Long Đỗ
làm Thành hoàng cho dân Thăng Long thờ, tước phong “Quảng Lợi Bạch Mã Tối Linh
Thượng Đẳng Thần”.
Các triều vua sau đều phong tặng thần Long Đỗ. Thời Trần,
năm Trùng Hưng thứ nhất (1285) rồi năm Hưng Long thứ 21 (1314) gia phong mỹ tự
“Thánh Hựu Phu Ứng Đại Vương”.
Vị thứ ba được thờ trong đình Tân Khai – thần Thiết Lâm (thần
rừng lim) – tương truyền là một vị thần của vùng Hồ Tây. Tuy chi tiết về ngài
hiện nay không có tài liệu nào ghi chép, song có thể thấy việc thờ ngài có lẽ bắt
nguồn từ tín ngưỡng của người Việt cổ xưa tôn sùng các lực lượng thiên nhiên
(như thần cây đa, thần cây gạo…). Đây là một hiện tượng phổ biến của cư dân Việt
nói riêng và cư dân Ấn Độ, Đông Nam Á nói chung, để cầu mong sự bình yên hạnh
phúc.
Đình Tân Khai trước đây được xây trên một mảnh đất nhỏ, áp
lưng vào chùa Thái Cam. Nay nhà tiền tế đã mất, đình chỉ còn hậu cung xây kiểu
chữ Công, rộng ba gian hai chái, mặt quay về hướng nam. Sân đình nằm dưới tán
lá một cây bồ đề to, cửa đình có đôi con nghê đứng chầu. Đình xây đầu hồi bít đốc,
2 tầng 4 mái, trên bờ nóc đắp hình lưỡng long triều nhật.
Đình Tân Khai hiện nay chung cổng ra vào với chùa Thái Cam.
Cổng này xây kiểu nhà cầu 4 trụ mái bằng, trên đắp cuốn thư đề 4 chữ Hán “Tân
Khai Linh Từ”, nhìn chếch ra ngã tư Hàng Vải – Hàng Gà. Trải qua thời gian hai
thế kỷ, đất đình chùa bị lấn chiếm một phần và các công trình đã xuống cấp
nghiêm trọng. Đầu năm 2015, cổng vào cụm di tích này đã được trùng tu.
Đình Tân Khai tuy ra đời vào đầu thế kỷ 19, song trong tâm
thức của người dân Hà Nội thì thần Tô Lịch, Bạch Mã, Thiết Lâm vẫn là những vị
thành hoàng tối thượng, phải được thờ cúng muôn đời để bảo vệ cho đất Thăng
Long. Đình (cùng chùa Thái Cam) đã được Bộ Văn hoá Thông tin ra quyết định ngày
09-01-1990 xếp hạng Di tích lịch sử văn hoá quốc gia.
Ngoài cửa đình hiện còn 4 chữ “Đông trấn hùng phong”, gợi ý
đây là nơi trấn cửa Đông thành Thăng Long. Các văn bia trong đình còn ghi lại rằng,
xưa kia đình quay về hướng Tây, sau chuyển hướng Đông Nam. Đình tọa lạc trên một
địa thế có phong thủy đẹp, hướng ra hồ Lục Thủy, dựa lưng vào núi Nùng.
Đình Tân Khai ngày nay nằm tại ngã tư phố Hàng Vải - Hàng
Gà. Cổng đình được xây theo kiểu nhà cầu bốn trụ mái bằng, trên đắp cuốn thư đề
4 chữ: “Tân Khai linh từ”. Trên cổng ra vào được làm bằng gỗ có chữ “Thọ” lớn với
biểu tượng ngũ phúc (5 con dơi) vây quanh. Theo thời gian, khuôn viên đình đã
có nhiều thay đổi. Nhà tiền tế đã mất, hiện nay đình chỉ còn hậu cung xây theo
kiểu chữ Công.
Bên trong đình, không gian thờ tự vẫn được giữ nguyên theo lối
thờ truyền thống của người Việt. Phía trên cung chính - nơi thờ tam vị Thành
hoàng - có hai bức hoành phi đề chữ “Thượng đẳng tối linh” và “Long Đỗ trung
anh” ca ngợi sự linh thiêng của các vị Thành hoàng.
Phía dưới là những câu đối kể lại công lao của các vị trong
việc giúp vua Lý Thái Tổ xây dựng thành Thăng Long, đánh tan bùa đồng của Cao
Biền cũng như diệt trừ yêu ma, đạo tặc để người dân có cuộc sống bình yên.
Trong đình hiện còn lưu giữ nhiều hiện vật quý như 15 đạo sắc phong của các đời
vua triều Nguyễn, kiệu bát cống, long đình, bát bửu, quả chuông đồng thời Tự Đức
(1847 - 1883), hai bức tượng đá xanh nguyên khối...
Đình Tân Khai đã trải qua nhiều lần tu sửa, phong cách kiến
trúc hiện nay có sự giao thoa văn hóa Đông - Tây. Bên cạnh lối kiến trúc khuôn
mẫu của đình làng Việt là nét kiến trúc phương Tây với phần trần đắp nổi hoa
văn, chấn song giữa các lớp mái được làm bằng gốm đúc hình chữ Thọ... Cụm di
tích đình Tân Khai - chùa Thái Cam đã được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia năm
1990.
Trải qua hơn hai thế kỷ, khuôn viên đình Tân Khai - chùa
Thái Cam bị lấn chiếm một phần diện tích, một số công trình đã xuống cấp nghiêm
trọng.
Ngoài việc di tích bị lấn chiếm nghiêm trọng suốt nhiều năm
qua, hiện nay nhiều du khách đến tham quan đều tỏ ý không hài lòng với tình trạng
hàng quán, xe cộ vây quanh cửa đình, nhiều người tụ tập gây ồn ào, ảnh hưởng đến
không gian di tích. Ông Đào mong muốn, để di tích xứng tầm quốc gia, bên cạnh
việc thường xuyên tu bổ, tôn tạo, chính quyền phường Hàng Bồ cần tăng cường thực
hiện việc giữ gìn trật tự đô thị tại khu vực di tích cũng như tuyên truyền thực
hiện nếp sống văn minh cho người dân sinh sống xung quanh.