Nghè Nguyệt Viên, làng cổ Nguyệt Viên, xã Hoằng Quang, thành phố Thanh Hóa, thờ phụng nữ Thành hoàng và các vị tiến sĩ của làng khoa bảng nổi tiếng xứ Thanh.
Nguyệt Viên xưa không chỉ nổi tiếng với truyền thống học
hành khoa bảng, mà còn là nơi gặp gỡ của tuyến giao thương Bắc - Nam bằng đường
thủy... Nhờ đó, làng cổ nằm cạnh sông Mã này mang “phong vị” đặc trưng của làng xã người Việt:
Thuần hậu, yên bình và đậm đà bản sắc văn hóa.
Về làng Nguyệt Viên, không thể qua thăm viếng nghè cổ Nguyệt
Viên, nơi thờ vị nữ Thành hoàng có duệ hiệu “Chương Vĩ Dực Bảo Trung Hưng Thượng
Đẳng Thần”.
Tọa lạc trên diện tích khá khiêm tốn, khoảng 0,25 ha, công
trình kiến trúc được xây dựng cách đây hơn 4 thế kỷ vào năm Quang Hưng thứ 16,
năm 1593 dương lịch triều Lê Thế Tông, khiến hậu thế phải kinh ngạc bởi vẻ đẹp
của nó.
Có nhà nghiên cứu, khi qua đây đã miêu tả nghè Nguyệt Viên
“tựa như một búp sen từ từ mở cánh tỏa sắc, khoe hương và soi bóng vào mặt
gương trong của dòng sông Mã”.
Bên cạnh vẻ đẹp kiến trúc, điều hấp dẫn của nghè Nguyệt Viên
còn nằm ở câu chuyện tình yêu đơn phương cảm động và đầy bi thương của nàng
công chúa đẹp người, đẹp nết dành cho vị Phụ ký lang hầu Đô tổng thống Nguyễn
Công Đàn, người có công lớn phò vua cứu nước.
Theo truyền thuyết dân gian địa phương, Thành hoàng làng
Nguyệt Viên là công chúa Mai Hoa, công chúa của vị vua đương thời.
Vì cảm phục tài cao học rộng của ông Nghè Đờn, sinh quán xã
Hoằng Thịnh, huyện Hoằng Hóa ngày nay nên khi ông từ quan về quê, bà đã bí mật
tìm theo. Tuy nhiên, giữa đường bị lạc, không thể tìm thấy quê của ông Nghè Đờn.
Quá tuyệt vọng nên bà đã gieo mình xuống sông Mã tự vẫn, thi
thể trôi về đến làng Nguyệt Viên và được ông tổ họ Nguyễn làng Nguyệt Viên chôn
cất tại Cồn Trạch.
Sau đó, các vị chức sắc trong làng nằm mơ thấy một người con
gái hiện ra nói sẽ báo đáp, phù hộ cho dân làng học hành tiến bộ, làm ăn phát đạt.
Từ đó, nhân dân làng Nguyệt Viên lấy ngày mùng 10 tháng 2 âm lịch hàng năm -
ngày chôn cất bà làm ngày giỗ và tôn bà làm Thành hoàng làng.
Nghè Nguyệt Viên ngoài thờ Thành hoàng làng là công chúa Mai
Hoa còn thờ các vị đỗ tiến sĩ trong các triều đại khác nhau. Tổng cộng có 18 vị
tiến sĩ được ghi danh và thờ phụng tại nghè.
Hiện bên trong di tích Nghè vẫn còn tấm bia ghi danh 11 vị
tiến sĩ của làng Nguyệt Viên đỗ đạt thời Phong kiến. Mở đầu là tiến sĩ Nguyễn
Trật (thời vua Lê Thần Tông) và người cuối cùng của làng, cũng là cuối cùng của
cả nước thi đỗ tiến sĩ thời Phong kiến là cụ Phó bảng khoa thi Kỷ Mùi 1919 Lê
Viết Tạo".
Như một niềm tự hào về truyền thống khoa bảng, đỗ đạt, ở
Nguyệt Viên ngày nay vẫn lưu truyền câu ca: "Nguyệt Viên 18 ông Nghè/ Ông
cưỡi ngựa tía, ông che tán vàng".
Nghè Nguyệt Viên được
khởi dựng cuối thế kỷ XVI, năm Quý Tỵ, thuộc niên hiệu Quang Hưng triều vua Lê
Thế Tông năm 1593 DL, trùng tu năm Đinh Hợi niên hiệu Minh Mệnh, năm 1827 dương
lịch, sửa chữa lớn năm Bính Thân niên hiệu Thành Thái, năm 1896 dương lịch. Năm
1996, Nghè Nguyệt Viên được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh.
Theo lời kể của người dân địa phương, trước đây Nghè nằm
trong khuôn viên có quy mô lớn của làng, ngay phía bên có ngôi chùa và đình
làng 9 gian, có giếng nước, chiếc cầu đá cùng nhiều cây cổ thụ quanh năm xanh tốt
với cảnh quan rộng rãi, thoáng mát.
Qua nhiều thời gian, các công trình như chùa, đình làng, giếng
cổ, cầu đá cổ, cây cổ thụ đều bị dỡ bỏ, chỉ còn lại duy nhất Nghè này. Đến nay,
công trình này nằm trên một diện tích khá khiêm tốn, chỉ chừng 2.500 m2, quy mô
kiến trúc cũng không lớn. Tuy nhiên, một công trình được xây dựng từ hơn 4 thế
kỷ, lại có nhiều nét kiến trúc cổ kính độc đáo khiến không ít nhà nghiên cứu từng
về đây phải kinh ngạc.
Tuy được khởi dựng từ khá sớm song dấu ấn kiến trúc cuối thế
kỷ XVI ở nghè Nguyệt Viên không còn nhiều, ngoài hiện vật đôi “sấu đá” được đặt
ở ngay trên bậc tam cấp bước vào nghè.
“Linh vật được chạm trong tư thế đang chồm tới, đầu hơi ngẩng,
mắt lồi, mũi thon, miệng rộng, đang há miệng ngậm viên ngọc quý... Loại sấu đá
này hiện còn khá nhiều ở các di tích thời Mạc ngoài Bắc. Nó có phần mất cân đối
trong bố cục, nhưng vẫn tạo một thế đẹp”
Nghè Nguyệt Viên -
PGS Nguyễn Du Chi.
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, di tích nghè Nguyệt
Viên hiện nay là “sản phẩm” của lần đại trùng tu thứ nhất (năm 1827) với kiến
trúc 1 gian 2 chái, bố cục gần giống hình vuông.
Trong đó, cấu trúc vì kèo khá đặc biệt, được ghi trong cuốn
Địa chí Văn hóa Hoằng Hóa, Nxb Khoa học Xã hội, 2000: “Những người thợ xây dựng
đã nâng cao và mở rộng giá chiêng ở trên câu đầu (dầm ngang chính đặt trên
cùng) thành một tầng lầu thứ hai nhưng không có sàn, tạo cho không gian nội thất
rộng rãi. Phía ngoài mái cũng tạo thành hai lớp, giữa hai lớp có thêm cổ diêm
cao với nhiều cửa sổ con làm cho nội thất công trình sáng sủa, thoáng đãng. Loại
kiến trúc hai lớp mái này được gọi là “trùng diêm”, xuất hiện cuối thế kỷ XVIII
(chùa Tây Phương, Hà Tây là ví dụ), đến công trình này thì đã hoàn chỉnh hơn. Cấu
trúc cao ráo, đơn giản và chắc chắn”.
Như nhiều di tích cùng thời, các mảng chạm khắc, trang trí ở
nghè Nguyệt Viên cũng xoay quanh đề tài “tứ linh” quen thuộc. Trong đó, rồng (mắt
lồi, mũi sư tử, mồm rộng) được chạm trên các đầu chếnh, một số rường, chạm
thành từng đôi chầu mặt trời trang nghiêm, hoặc đăng đối; phượng (đầu to, mỏ quặp
đang ngậm cuốn thư, đuôi seo sau gáy dài, thân nhiều lớp lông và mây xoắn, đuôi
kéo dài cuồn cuộn như diềm lá đang cuốn trước gió) được thể hiện trong bố cục
khỏe khoắn: toàn bộ thân uốn cong, đầu quay lại nhô cao ra ngoài. Hai con ở đầu
góc đăng đối song bố cục, cách thể hiện lại không hoàn toàn giống nhau, tạo lên
sự hấp dẫn cho du khách viếng thăm.
Nghè Nguyệt Viên là một công trình kiến trúc nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hóa
triều Lê đời vua Lê Thế Tông (1593). Nghè đã qua nhiều lần
trùng tu nhưng vẫn giữ nguyên được lối kiến trúc độc đáo xưa. Ảnh: ĐẶNG
TRUNG
Phía ngoài mái tạo thành hai lớp, giữa hai lớp có thêm cổ diêm cao với
nhiều cửa sổ nhỏ tạo lên sự độc đáo khác biệt cho ngôi nghè. Ảnh:
ĐẶNG TRUNG
Tấm văn bia cổ được đặt trước Nghè Nguyệt Viên. Ảnh: ĐẶNG TRUNG
Bức đại tự được treo chính giữa bên trong Nghè Nguyệt Viên. Ảnh: ĐẶNG TRUNG
Kỹ thuật chạm khắc lồng với nhiều lớp hình thành chiều sâu văn hóa thu hút. Ảnh ĐẶNG TRUNG
Nghệ nhân xưa khéo léo kết hợp những đường nét hình khối tạo
nên các chi tiết đơn giản tinh tế. Ảnh: ĐẶNG
TRUNG
Hình rồng tạo thành chữ Phúc được người thợ chạm khắc từ hơn 400 năm trước vẫn nguyên vẹn. Ảnh: ĐẶNG TRUNG
Tham quan nghè Nguyệt Viên, người xem cũng nhận ra đề tài
“lân” tại đây chiếm số lượng lớn, chạm trên “nghé bẩy, rường đấu, các cốn” với
nhiều tư thế: con bơi trên mặt nước, lưng cõng một vòng có hình bát quái của
“Hà đồ lạc thư”, con lại trong tư thế nằm ngửa... Kỹ thuật chạm khắc với nhiều
lớp tạo nên chiều sâu thu hút. Bên cạnh đó, người nghệ nhân xưa cũng khéo léo kết
hợp đường nét, hình khối để vừa đủ đầy chi tiết nhưng vẫn đơn giản tinh tế và sống
động.
PGS Nguyễn Du Chi trong bài viết Nghè Nguyệt Viên nhận xét:
“Chính những bức chạm đẹp ở nghè Nguyệt Viên bắt buộc chúng ta phải đánh giá lại
về nghệ thuật kiến trúc và trang trí của đầu thế kỷ XIX... Về trang trí ở đây
có những tác phẩm xứng đáng được lựa chọn đưa vào lịch sử nghệ thuật vì tiêu biểu
cho nghệ thuật đầu thế kỷ XIX”.
Kiến trúc cầu kỳ đẹp mắt cùng với những đường nét chạm khắc
nghệ thuật tinh xảo khiến Nghè Nguyệt Viên vừa linh thiêng, trang trọng vừa thực
sự gần gũi, gắn bó với cuộc sống đời thường của người dân trong làng. Kỹ thuật
chạm khắc linh vật ở Nghè Nguyệt Viên nhiều lớp gây ấn tượng về chiều sâu cảm
nhận của bức chạm.
Hội làng hay lễ hội nghè Nguyệt Viên được tổ chức vào mùng
10 tháng hai âm lịch. Cùng với phần nghi lễ trang nghiêm, thành kính; phần hội
đặc biệt thu hút người dân trong vùng bởi các hoạt động mang tính cộng đồng
cao, như đua thuyền trên sông Mã, kéo hẹ, tú huần, hát đối... Theo lý giải của
các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, sức hấp dẫn của lễ hội nghè Nguyệt Viên một
phần nằm ở lễ nghi và các trò diễn tưng bừng, náo nhiệt; song, sâu xa hơn, sức
sống của lễ hội lại nằm ở nhân vật được thờ phụng.
Vượt xa ý niệm ban đầu là cảm thương cho tình yêu và cái chết
của nàng công chúa, nhân vật được thờ phụng tại nghè Nguyệt Viên đã hóa thân
thành Thành hoàng làng hay nữ thần sông, che chở cuộc sống và mang lại mưa thuận
gió hòa, ấm no hạnh phúc, thành đạt cho mọi người dân nơi đây.
Trải qua thời gian nhiều thế kỷ, đến nay nghè Nguyệt Viên vẫn
được địa phương chăm sóc, giữ gìn, như báu vật quê hương, “điểm tựa” tâm linh
cho không chỉ người dân mà du khách xa, gần khi về với làng cổ Nguyệt Viên bên
bờ sông Mã.
Từ xa xưa, cứ vào sáng mùng 1 tết, những người đỗ đạt trong
làng, người theo con đường học hành, khoa cử lại ra nghè dâng hương, đàm đạo.
Noi theo truyền thống đó, các cháu học sinh sau này, đứng trước mỗi kỳ thi lớn,
bên cạnh sự nỗ lực cũng được bố mẹ dẫn ra nghè dâng lễ, cầu xin sự phù trợ hanh
thông, may mắn... Lễ hội truyền thống nghè Nguyệt Viên diễn ra vào ngày mùng 10
tháng 2 âm lịch với nhiều hoạt động, là dấu ấn thời gian để người dân nhớ về
nguồn cội, tri ân công đức tiền nhân."
Ảnh tư liệu: Vietnam Landmarks