Cụm đình, đền, chùa Bái Thượng, thuộc làng Bái Thượng, tổng An Tiêm, phủ Đông Quan (nay là thôn Bái Thượng, xã Thụy Phúc, huyện Thái Thụy) vẫn duy trì nghi lễ thờ tứ vị thánh nương (còn gọi là Tứ vị Đại càn thánh Mẫu), nghi lễ độc đáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Cụm di tích đình, đền, chùa Bái Thượng, xã Thụy Phúc, huyện
Thái Thụy.
Truyền ngôn rằng ngày xửa ngày xưa vào một năm nọ, mưa to
gió lớn, nước lũ tràn về, đê vỡ, làng Bái Thượng chìm trong biển nước, triều
đình hô hào dân trong vùng ra đắp đê chặn lũ nhưng bao công sức trôi theo dòng
nước đành lập đàn tế lễ xin thần linh phù trợ.
Bỗng thấy 2 con rắn trắng nổi lên giữa dòng nước xoáy bên cạnh
có bốn cái nón. Nước chảy xiết mà nón không chìm, không trôi theo dòng nước mà
cứ quẩn lại đoạn đê vỡ. Dòng xoáy hẹp dần dân mới hàn khẩu đoạn đê bị vỡ… Dân
gian cho rằng đó là vong linh của “Tứ vị thánh Mẫu” ứng nghiệm giúp dân chặn
dòng nước xiết…
Cụm đình, đền, chùa Bái Thượng, thuộc làng Bái Thượng, tổng
An Tiêm, phủ Đông Quan (nay là thôn Bái Thượng, xã Thụy Phúc, huyện Thái Thụy)
vẫn duy trì nghi lễ thờ tứ vị thánh nương (còn gọi là Tứ vị Đại càn thánh Mẫu),
nghi lễ độc đáo trong tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt.
Theo các bậc đại lão, làng Bái Thượng thời nhà Lý (thế kỷ XI
- XII) vẫn là dải đất sát biển Đông với những đụn cát lớn nổi lên. Thời Trần
vùng đất Bái Thượng nằm trong tuyến phòng thủ chiến lược của quân đội nhà Trần
góp phần ba lần đại thắng quân Nguyên - Mông.
Trong chuyến điền dã mới đây về làng Bái Thượng, xã Thụy
Phúc, huyện Thái Thụy tìm hiểu về nghi lễ thờ tứ vị thánh nương hay còn gọi là
“Tứ vị Đại càn thánh Mẫu” nhóm nghiên cứu văn hóa dân gian chúng tôi được cụ
Nguyễn Văn Nơi, sinh năm 1937 ở làng Bái Thượng cho biết: Thời kỳ Pháp thuộc,
làng bị giặc Pháp đốt phá do vậy nhiều thư tịch cổ, bia đá ghi thần phả, thần
tích… bị hủy hoại nên tư liệu lịch sử ghi chép về di tích đình, đền, chùa… hầu
như không còn.
Các nghi lễ tôn thờ Tứ vị Đại càn thánh Mẫu chỉ còn trong tiềm
thức dân gian nhất là nghi thức tế Nam quan đang mai một, có nguy cơ mất hẳn.
Tìm trong sách “Lĩnh Nam chích quái” chúng tôi thấy sách
ghi: “…một dải từ Kinh kỳ, phố Hiến đến cửa biển một thời đông vui “phú thương
ngoại quốc tới buôn bán tấp nập, thờ Tiên Dung, Chử Đồng Tử làm chúa” với phố
xá… các chợ làng biển. Bấy giờ, nhà nước phong kiến quy định thuyền buôn ngoại
quốc và thuyền buôn các vùng trong cả nước về trao đổi hàng hóa ở vùng kẻ chợ/kinh
đô phải dừng ở vùng này, cách xa Thăng Long để giữ an toàn cho kinh đô”.
Xét về mặt địa lý, làng Bái Thượng thuộc lưu vực của ba dòng
sông đổ ra biển Đông là sông Trà Lý, sông Diêm Hộ và giao hòa sông Hóa, sông
Thái Bình. Thời Trần gọi đây là cửa Đại Bàng gắn liền với những chiến công hiển
hách của quân đội nhà Trần.
Nhưng điều đáng quan tâm vì sao đền Bái Thượng lại thờ tứ vị
thánh nương. Theo truyền ngôn thuở ban đầu xuất phát từ tình cảm thương xót của
người dân ven biển đối với thân phận bi thương của Hoàng thái hậu nhà Tống, thiệt mạng
trôi dạt trên biển được các bậc đế vương phong thần hộ mệnh sông nước.
Lục vấn cảo thơm thấy
ghi Đại càn thánh Mẫu hay bà Đại càn, tước hiệu là Đại Càn Quốc Gia Nam Hải tứ
vị thánh nương. Sự tích về Đại càn thánh Mẫu được tiến sĩ Sùng Nham Hầu Dương
Văn An chép trong “Ô châu cận lục” (Trích trong Dương Văn An (1553), Ô châu cận
lục - Nguyễn Khắc Thuần dịch, hiệu đính và chú giải, Hà Nội, NXB Giáo dục Việt
Nam, năm 2009, trang 95 - 97) nội dung như sau: “Xét trong Bản truyện thì phu
nhân họ Triệu, công chúa của nhà Nam Tống. Tứ vị thánh nương gồm mẹ và ba người
con, phu nhân là con gái út.
Năm Thiệu Bảo nguyên niên đời nhà Tống là Trần Quang Tôn (thời
kỳ Bắc thuộc). (Bấy giờ) Tống Đoan Tông chạy ra một hòn đảo ngoài biển rồi bị bệnh
mất. Thừa tướng Thiên Tường bị bắt, Lục Tú Phu nhảy xuống biển tự tử, Thế Kiệt
bị chết đuối, số người chết kể cả tôn thất cùng với quan lại và nhân dân đến
hơn một vạn.
Phu nhân cùng mẹ và hai người chị vớ được một tấm ván thuyền,
dạt vào một ngôi chùa ở một bờ biển, đói khổ buồn bã. Nhà sư trông thấy cảm
thương bèn cho ăn và bảo dưỡng mấy tháng liền. Bốn mẹ con được nhàn hạ và no đủ
nên thân thể hồi phục, dung mạo đẹp đẽ lạ thường, nhà sư trong chùa thấy thế
sinh lòng tà dâm, đêm đến hỏi xin thông dâm với phu nhân. Phu nhân giữ tiết nên
quyết cự lại. Nhà sư ngộ ra, lấy làm xấu hổ, bèn nhảy xuống biển trẫm mình.
Mẹ con phu nhân cùng khóc mà than: “Mẹ con ta đội ơn nhà sư
cứu vớt nuôi dưỡng nên mới bảo toàn được tính mạng, nay nhà sư lại vì ta mà trẫm
mình chết, vậy thì ta còn có thể sống được hay sao”. Nói rồi mẹ của phu nhân
lao xuống biển, lúc ấy phu nhân và các chị cũng tự trẫm theo.
Thi thể trôi dạt đến ven biển nước Việt ta. Nhân dân thấy
thi thể không hư tổn, bèn nói với nhau bên kia bờ biển hiểm yếu sao mà trôi mấy
ngàn dặm, áo quần, dung mạo xinh đẹp lạ lùng vẫn như người còn sống.
Họ cho là thần, vội chôn cất cẩn thận rồi lập đền thờ cúng.
Từ đó, phàm là thuyền buôn bán gần xa, hễ gặp phong ba là vội khẩn khoản cầu khấn
và chỉ trong phút chốc quả nhiên được bình an. Đến nay các cửa biển đều lập đền
thờ cúng tế. Đây là vị phúc thần linh thiêng nhất của Nam Hải vậy.
Tìm hiểu về sự hiển linh của tứ vị đại càn, sách “Đại Việt sử
ký toàn thư” chép: “Hưng Long thứ 19 (1311), mùa đông, tháng 12, vua thân đi
đánh Chiêm Thành vì chúa nước ấy là Chế Chí phản trắc. Hưng Long thứ 20 (1312),
mùa hạ, tháng 5, đến cửa biển Càn Hải (có ý kiến cho rằng cửa Đại Bàng) đóng
quân lại, đêm mơ thấy một thần nữ khóc lóc nói với vua: “Thiếp là cung phi nhà
Triệu Tống, bị giặc bức bách, gặp phải sóng gió, trôi dạt đến đây. Thượng đế
phong thiếp làm thần biển đã lâu. Nay bệ hạ mang quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập
công.
Tỉnh dậy, vua cho gọi các bô lão tới hỏi thực hư, cho tế, rồi
lên đường. Biển vì thế không nổi sóng. Quân nhà vua tiến thẳng tới thành Đồ
Bàn, bắt được chúa Chiêm đem về… Tháng 6, vua từ Chiêm Thành về (đến kinh
đô)... lập đền thờ thần ở cửa biển Càn Hải, sai hữu ty bốn mùa cúng tế”. Theo ý
kiến của nhiều sử gia và các nhà nghiên cứu cho rằng xã hội phong kiến người
dân đức tin tuyệt đối vào lực lượng siêu nhiên như thánh, thần… vậy nên nghi thức
thờ tứ vị thánh nương ở một làng quê cửa biển là lẽ thường tình.
Còn đối với triều đình lúc bấy giờ biết dựa vào dân với đức
tin tuyệt đối là một biện pháp chính trị khôn ngoan. Câu chuyện về giấc mơ của
nhà vua về tứ vị thánh nương đến giúp xuất quân thắng trận chính là cách nhà
vua muốn truyền thông điệp đến các tướng lĩnh, quân binh rằng chuyến chinh phạt
này không những được bách thần trong nước phù trợ mà còn được cả các vị thần đế
vương, hoàng thái hậu ngoài nước trợ giúp, tất yếu sẽ giành chiến thắng. Đó là
giá trị sức mạnh tinh thần cổ vũ tướng sĩ dấn thân vào trận.
Tứ vị thánh nương được các triều đình phong kiến ban tặng
nhiều sắc phong ghi nhận công trạng và tôn vinh: “Đại càn quốc gia Nam Hải tứ vị
thánh Mẫu” đồng thời cấp tiền bạc xây dựng đền thờ dọc cửa biển nhờ đó mà uy
danh tứ vị thánh nương trở nên linh thiêng trong tâm thức của người dân đất Việt,
trong đó có người dân làng Bái Thượng.