Theo thông tin từ Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 16/1/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Dưới đây là nội dung Nghị quyết:
NGHỊ QUYẾT
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
I- TÌNH HÌNH
Mười lăm năm qua, ngành Du lịch đã có bước phát triển rõ rệt
và đạt được những kết quả quan trọng, rất đáng khích lệ. Tốc độ tăng trưởng
khách du lịch quốc tế đạt 10,2%/năm, khách du lịch nội địa đạt 11,8%/năm. Năm
2016, số lượng khách du lịch quốc tế đạt 10 triệu lượt người, tăng hơn 4,3 lần
so với năm 2001; khách du lịch nội địa đạt 62 triệu lượt người, tăng 5,3 lần so
với năm 2001; đóng góp trực tiếp ước đạt 6,8% GDP, cả gián tiếp và lan toả đạt
14% GDP. Hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật ngành Du lịch ngày càng
phát triển. Loại hình sản phẩm, dịch vụ du lịch ngày càng phong phú và đa dạng.
Chất lượng và tính chuyên nghiệp từng bước được nâng cao. Lực lượng doanh nghiệp
du lịch lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, tạo được một số thương hiệu có
uy tín ở trong nước và quốc tế. Bước đầu hình thành một số địa bàn và khu du lịch
trọng điểm.
Sự phát triển của ngành Du lịch đã và đang góp phần thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di
sản văn hoá, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân
dân; đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam.
Tuy nhiên, ngành Du lịch còn một số hạn chế, yếu kém. Du lịch
phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và kỳ vọng của xã hội. Sản
phẩm du lịch chưa thực sự hấp dẫn và có sự khác biệt, khả năng cạnh tranh chưa
cao. Chất lượng dịch vụ du lịch chưa đáp ứng yêu cầu. Hiệu lực và hiệu quả quản
lý nhà nước về du lịch chưa cao. Môi trường du lịch, an toàn thực phẩm và an
toàn giao thông còn nhiều bất cập. Công tác xúc tiến quảng bá du lịch còn nhiều
hạn chế về nguồn lực, sự phối hợp và tính chuyên nghiệp, hiệu quả chưa cao. Nguồn
nhân lực du lịch vừa thiếu vừa yếu. Doanh nghiệp du lịch chủ yếu là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa; vốn, nhân lực và kinh nghiệm quản lý còn hạn chế. Vai trò của
cộng đồng trong phát triển du lịch chưa được phát huy.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, yếu kém nêu trên là
do các cấp, các ngành chưa thực sự coi du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có
tính liên ngành, liên vùng, xã hội hoá và hội nhập quốc tế cao, mang nội dung
văn hoá sâu sắc; thiếu chính sách quốc gia phù hợp để du lịch phát triển theo
đúng tính chất của một ngành kinh tế vận hành theo quy luật thị trường. Thể chế,
chính sách phát triển du lịch chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, vẫn còn nặng tư
tưởng bao cấp. Sự phối hợp liên ngành, liên vùng hiệu quả còn thấp; đầu tư còn
dàn trải, chưa huy động được nhiều nguồn lực của xã hội cho phát triển du lịch.
Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch chưa được quan tâm đúng mức.
II- QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU
1- Quan điểm
- Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn là định
hướng chiến lược quan trọng để phát triển đất nước, tạo động lực thúc đẩy sự
phát triển của các ngành, lĩnh vực khác, nhưng không nhất thiết địa phương nào
cũng xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn.
- Phát triển du lịch thực sự là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp,
có tính liên ngành, liên vùng, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, có thương
hiệu và khả năng cạnh tranh cao; xã hội hoá cao và có nội dung văn hoá sâu sắc;
tăng cường liên kết trong nước và quốc tế, chú trọng liên kết giữa ngành Du lịch
với các ngành, lĩnh vực khác trong chuỗi giá trị hình thành nên các sản phẩm du
lịch.
- Phát triển đồng thời cả du lịch quốc tế và du lịch nội địa;
tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân và du khách quốc tế tham quan, tìm hiểu,
khám phá cảnh quan, di sản thiên nhiên và văn hoá của đất nước; tôn trọng và đối
xử bình đẳng đối với khách du lịch từ tất cả các thị trường.
- Phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di
sản văn hoá và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi
trường và thiên nhiên; giải quyết tốt vấn đề lao động, việc làm và an
sinh xã hội; bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội.
- Phát triển du lịch là trách nhiệm của cả hệ thống chính
trị, các cấp, các ngành, của toàn xã hội, có sự lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ của
các cấp uỷ đảng; phát huy mạnh mẽ vai trò động lực của doanh nghiệp và cộng đồng
dân cư, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; tập trung nguồn lực quốc gia cho
phát triển du lịch.
2- Mục tiêu
- Đến năm 2020, ngành Du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; có tính chuyên
nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện
đại; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang
đậm bản sắc văn hoá dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực.
Thu hút được 17 - 20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 82
triệu lượt khách du lịch nội địa; đóng góp trên 10% GDP, tổng thu từ khách du lịch
đạt 35 tỉ USD; giá trị xuất khẩu thông qua du lịch đạt 20 tỉ USD; tạo ra 4 triệu
việc làm, trong đó có 1,6 triệu việc làm trực tiếp.
- Phấn đấu đến năm 2030, du lịch thực sự là ngành kinh tế
mũi nhọn, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của các ngành, lĩnh vực khác. Việt Nam
thuộc nhóm các nước có ngành Du lịch phát triển hàng đầu khu vực Đông Nam Á.
III- NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP
1- Đổi mới nhận thức, tư duy về phát triển du lịch
Nhận thức rõ du lịch là ngành kinh tế dịch vụ tổng hợp, có
tính liên ngành, liên vùng, xã hội hoá cao và nội dung văn hoá sâu sắc; có khả
năng đóng góp lớn vào phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và tạo động lực cho các ngành, lĩnh vực khác phát triển, đem lại hiệu
quả nhiều mặt về kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị, đối ngoại và an ninh,
quốc phòng.
Đổi mới mạnh mẽ tư duy, phát triển du lịch theo quy luật
kinh tế thị trường, bảo đảm nhất quán từ quan điểm, mục tiêu, chương trình hành
động và có thể chế, chính sách đột phá, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch
thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Nâng cao ý thức của người dân, doanh nghiệp và cộng đồng
trong xây dựng, bảo vệ hình ảnh, môi trường, góp phần phát triển bền vững,
không ngừng nâng cao uy tín, thương hiệu và sức thu hút của du lịch Việt Nam.
2- Cơ cấu lại ngành Du lịch bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiện
đại và phát triển bền vững theo quy luật của kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế
Hoàn thiện cơ cấu ngành Du lịch, bảo đảm phát triển đồng bộ
trong tổng thể phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Rà soát, điều chỉnh chiến lược và quy hoạch phát triển du lịch
theo hướng tập trung nguồn lực xây dựng các khu vực động lực phát triển du lịch.
Xây dựng và triển khai Đề án cơ cấu lại ngành Du lịch theo
hướng ưu tiên đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng du lịch; liên kết chuỗi giá trị
đầu vào của các ngành; tập trung phát triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch
văn hoá, tâm linh, du lịch sinh thái và du lịch cộng đồng có sức hấp dẫn và khả
năng cạnh tranh cao; kiểm soát và nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ du lịch
theo hướng hiện đại, khác biệt; đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động
xúc tiến quảng bá gắn với sản phẩm và thị trường; bảo đảm môi trường du lịch an
toàn, văn minh.
Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tiềm năng, lợi
thế phát triển du lịch khẩn trương xây dựng đề án cơ cấu lại ngành Du lịch của
địa phương.
3- Hoàn thiện thể chế, chính sách
Tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp; có cơ chế, chính
sách phù hợp và đột phá để phát triển du lịch thành kinh tế mũi nhọn, đáp ứng
yêu cầu, tính chất của ngành kinh tế tổng hợp, hoạt động theo cơ chế thị trường.
Ban hành cơ chế, chính sách huy động tối đa nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển
du lịch theo định hướng cơ cấu lại ngành Du lịch.
Trước mắt, điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các chính sách trực
tiếp liên quan đến phát triển du lịch:
- Về đầu tư, ban hành các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu
tư vào du lịch, nhất là các địa bàn trọng điểm, vùng sâu, vùng xa có tiềm năng
du lịch, sản phẩm du lịch đặc thù và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Tăng cường hợp tác công - tư để huy động các nguồn lực trong xã hội cho phát
triển du lịch. Nhà nước ưu tiên bố trí vốn cho công tác xây dựng quy hoạch, đào
tạo nguồn nhân lực, quảng bá xúc tiến.
- Về tài chính, chuyển đổi cơ chế phí tham quan sang cơ chế
giá dịch vụ; điều chỉnh giá điện áp dụng cho các cơ sở lưu trú du lịch ngang bằng
với giá điện sản xuất; có chính sách phù hợp về thuế sử dụng đất và tiền thuê đất
đối với các dự án du lịch có hệ số sử dụng đất cho xây dựng thấp và hạn chế về
chiều cao, chính sách đất đai hợp lý đối với diện tích xây dựng ký túc xá, nhà ở
cho người lao động du lịch tại những nơi hạn chế về nguồn nhân lực; tạo điều kiện
thuận lợi hoàn thuế giá trị gia tăng cho khách du lịch.
Thành lập và có cơ chế quản lý, sử dụng hiệu quả Quỹ hỗ trợ
phát triển du lịch. Ngân sách nhà nước hỗ trợ ban đầu cho Quỹ và hằng năm được
bổ sung từ nguồn thu lệ phí thị thực nhập cảnh, phí tham quan du lịch, đóng góp
của doanh nghiệp, khách du lịch và các nguồn hợp pháp khác.
- Về thủ tục nhập cảnh, tiếp tục hoàn thiện, ban hành chính
sách tạo thuận lợi tối đa và đơn giản về thủ tục thị thực nhập cảnh cho khách
du lịch quốc tế đến Việt Nam.
- Đối với những vấn đề cấp bách cần triển khai ngay để tạo đột
phá cho du lịch phát triển, nếu chưa có văn bản pháp luật quy định hoặc có quy
định khác thì cho thực hiện thí điểm.
4- Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật
ngành Du lịch
Dành nguồn lực thích hợp từ ngân sách nhà nước đầu tư phát
triển hạ tầng giao thông, nhất là tại các địa bàn trọng điểm, động lực; nâng
cao khả năng kết nối giao thông tới các khu, điểm du lịch, kiểm soát chất lượng
dịch vụ và đảm bảo an toàn giao thông cho khách du lịch. Đầu tư các điểm dừng,
nghỉ trên các tuyến du lịch đường bộ. Đẩy mạnh thực hiện chính sách "mở
cửa bầu trời", triển khai thực hiện thương quyền 5 về hàng không; tạo điều
kiện cho các hãng hàng không mở các đường bay mới kết nối Việt Nam với thị trường
nguồn, tăng cường tần suất các đường bay có sẵn; giải quyết các điểm nghẽn và
tình trạng quá tải tại các cảng hàng không. Tập trung đầu tư một số cảng biển
và cảng thuỷ nội địa chuyên dùng tại các địa bàn có điều kiện thuận lợi phát
triển du lịch đường biển và đường sông. Cải thiện hạ tầng và chất lượng dịch vụ
đường sắt phục vụ khách du lịch.
Tăng cường thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển hệ
thống cơ sở vật chất kỹ thuật ngành Du lịch. Khuyến khích các nhà đầu tư chiến
lược đầu tư hình thành các khu dịch vụ du lịch phức hợp, dự án dịch vụ du lịch
quy mô lớn, các trung tâm mua sắm, giải trí chất lượng cao tại các địa bàn trọng
điểm.
5- Tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch
Đổi mới cách thức, nội dung, tăng cường ứng dụng công nghệ
hiện đại, bảo đảm thực hiện thống nhất, chuyên nghiệp và nâng cao hiệu quả xúc
tiến quảng bá du lịch trong nước và nước ngoài. Xây dựng và định vị thương hiệu
du lịch quốc gia gắn với hình ảnh chủ đạo, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hoá dân
tộc.
Kết hợp sử dụng nguồn lực của Nhà nước và huy động sự tham
gia của toàn xã hội trong hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch.
Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan đại diện và
thương vụ Việt Nam tại nước ngoài trong việc xúc tiến quảng bá du lịch. Khuyến
khích doanh nghiệp du lịch đặt văn phòng đại diện tại nước ngoài. Phát huy vai
trò của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động xúc tiến quảng bá
du lịch.
Phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông, tạo đột phá
trong hoạt động xúc tiến quảng bá thị trường trong nước, kết hợp với nâng cao
nhận thức về vai trò, vị trí ngành Du lịch.
6- Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp và cộng đồng
phát triển du lịch
Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo môi trường cạnh tranh lành
mạnh, minh bạch, bình đẳng, thuận lợi cho doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Khuyến
khích doanh nghiệp đổi mới, sáng tạo, đa dạng hoá các loại hình, sản phẩm du lịch
phù hợp với định hướng cơ cấu lại ngành Du lịch. Hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
kinh doanh du lịch, đặc biệt ở những địa phương vùng sâu, vùng xa. Chú trọng bảo
vệ quyền sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp du lịch; xử lý nghiêm hành vi cạnh
tranh thiếu lành mạnh.
Tạo điều kiện thuận lợi để người dân trực tiếp tham gia kinh
doanh và hưởng lợi từ du lịch; có chính sách hỗ trợ phát triển du lịch cộng đồng.
Nâng cao vai trò của cộng đồng, xây dựng cộng đồng du lịch văn minh, thân thiện
trong ứng xử với khách du lịch; phát huy vai trò của các tổ chức xã hội nghề
nghiệp liên quan đến du lịch.
7- Phát triển nguồn nhân lực du lịch
Nhà nước có chính sách thu hút đầu tư cho đào tạo nguồn nhân
lực du lịch; tăng cường năng lực cho các cơ sở đào tạo du lịch cả về cơ sở vật
chất kỹ thuật, nội dung, chương trình và đội ngũ giáo viên. Đẩy mạnh xã hội hoá
và hợp tác quốc tế, thu hút nguồn lực phát triển nguồn nhân lực du lịch.
Đa dạng hoá các hình thức đào tạo du lịch. Đẩy mạnh ứng dụng
khoa học - công nghệ tiên tiến trong đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân
lực du lịch.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về quản lý nhà nước,
quản trị doanh nghiệp và lao động nghề du lịch. Chú trọng nâng cao kỹ năng nghề,
ngoại ngữ và đạo đức nghề nghiệp cho lực lượng lao động ngành Du lịch.
Hoàn thiện bộ tiêu chuẩn nghề quốc gia về du lịch tương
thích với các tiêu chuẩn trong ASEAN; thành lập Hội đồng nghề du lịch quốc gia
và Hội đồng cấp chứng chỉ nghề du lịch.
8- Tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về du lịch và các lĩnh vực
liên quan để tạo điều kiện cho phát triển du lịch; hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn,
quy chuẩn quốc gia trong lĩnh vực du lịch theo hướng hội nhập khu vực và quốc tế;
nâng cao chất lượng công tác quy hoạch phát triển du lịch.
Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về du lịch theo hướng đồng
bộ, chuyên nghiệp, hiệu lực và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu quản lý liên ngành,
liên vùng của hoạt động du lịch; phát huy vai trò của Ban Chỉ đạo nhà nước về
du lịch.
Nâng cao năng lực, trách nhiệm và quyền hạn của Tổng cục Du
lịch. Thành lập sở du lịch tại các địa phương có điều kiện phát triển du lịch
theo nguyên tắc không tăng thêm biên chế.
Nghiên cứu xác định mô hình, hệ thống tổ chức, quản
lý ngành Du lịch đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trong tình hình
mới.
Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra chuyên ngành và liên
ngành, kiểm soát chất lượng dịch vụ hệ thống khách sạn, các doanh nghiệp lữ
hành, đội ngũ hướng dẫn viên và các cơ sở dịch vụ du lịch; khẩn trương triển
khai ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động quản lý thuế, phí để chống
thất thu trong hoạt động du lịch.
Đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ và chính quyền
địa phương các cấp trong tổ chức triển khai, quản lý hoạt động du lịch; xử lý
dứt điểm các tệ nạn đeo bám, ép khách, cướp giật; bảo đảm vệ sinh môi trường và
an toàn thực phẩm, xây dựng môi trường du lịch văn minh, an toàn, thân thiện.
Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế, phát huy tiềm năng, thế
mạnh và khai thác các cơ hội, nguồn lực để phát triển, gắn kết du lịch Việt Nam
với du lịch của các nước trong khu vực và thế giới, đồng thời khắc phục những hạn
chế của du lịch Việt Nam.
IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, ban đảng, ban cán sự đảng, đảng
đoàn và đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức phổ biến, quán triệt Nghị quyết;
theo chức năng, nhiệm vụ, xây dựng và triển khai kế hoạch, chương trình hành
động thực hiện Nghị quyết.
Ban cán sự đảng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch chỉ đạo tổ
chức quán triệt, xây dựng và triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết trong ngành Du lịch.
2- Đảng đoàn Quốc hội lãnh đạo sửa đổi, bổ sung hoặc ban
hành mới các luật, pháp lệnh, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi để du lịch phát triển
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
3- Ban cán sự đảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng và thực hiện
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết; kiểm tra, đôn đốc và định kỳ báo
cáo Bộ Chính trị việc tổ chức thực hiện Nghị quyết. Ban Chỉ đạo nhà nước về du
lịch chỉ đạo việc phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện
Nghị quyết./.